Quảng cáo

Rainer Zitelmann – Xuất bản lần đầu:10 Tháng bảy 2022 

https://doi.org/10.1111/ecaf.12524

Bài viết này dựa trên các cuộc khảo sát được thực hiện ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam là một phần của dự án Người giàu có trong dư luận. Trong khi ở các nước phương Tây, 28% số người được hỏi cho rằng điều quan trọng là phải trở nên giàu có thì ở các nước châu Á được khảo sát, con số này là 58%. Sự ghen tị xã hội nhắm vào người giàu ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam thấp hơn nhiều so với ở Châu Âu và Hoa Kỳ. Trong khi ở Trung Quốc, nó ở mức tương tự như ở một số nước phương Tây. Đặc biệt, thái độ của người dân đối với người giàu ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam tích cực hơn nhiều so với các nước phương Tây, trong khi ở Trung Quốc, thái độ của họ tương tự như ở châu Âu.

  1. GIỚI THIỆU

Trong các số báo Kinh tế trước đây (Zitelmann,  2020b ; 2021 ), tôi đã trình bày những phát hiện của dự án nghiên cứu Người giàu có trong dư luận (Zitelmann,  2020a ). Vào thời điểm đó, dự án đã phân tích dữ liệu khảo sát về thái độ của công chúng đối với người giàu từ 7 quốc gia – Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Ý, Thụy Điển và Tây Ban Nha. Kể từ đó, nghiên cứu đã được tiếp tục và cuộc khảo sát tương tự cũng đã được thực hiện ở Trung Quốc (vào tháng 5 năm 2021) và ở Hàn Quốc, Việt Nam và Nhật Bản (vào tháng 9 năm 2021). Ở mỗi quốc gia, Ipsos MORI đã khảo sát khoảng 1.000 người được hỏi.

  1. ĐỐI VỚI NGƯỜI CHÂU Á, GIÀU LÀ QUAN TRỌNG

Một trong những mục khảo sát hỏi người trả lời tầm quan trọng của việc trở nên giàu có hoặc cá nhân họ trở nên giàu có. Tại 6 quốc gia Châu Âu và Hoa Kỳ, trung bình 28% số người được hỏi cho biết việc trở nên giàu có là “rất quan trọng” hoặc “tương đối quan trọng” đối với cá nhân họ, với con số ở từng quốc gia chỉ dao động từ 19% ở Anh quốc đến 36% ở Ý.

Vòng khảo sát mới nhất của chúng tôi xác nhận rằng con số này cao hơn ở tất cả các nước châu Á: 43% ở Nhật Bản, 50% ở Trung Quốc, 63% ở Hàn Quốc và cao tới 76% ở Việt Nam. Do đó, tỷ lệ phần trăm trung bình ở bốn quốc gia châu Á là 58%, cao hơn 30 điểm phần trăm so với ở châu Âu và Hoa Kỳ. Người dân trên khắp châu Á đang khao khát thành công hơn – và điều này phần nào giải thích mức độ năng động kinh tế cao hơn trên khắp lục địa, đặc biệt là ở các quốc gia như Trung Quốc và Việt Nam (Hình 1).

HÌNH 1 Tại sao giàu có lại quan trọng? Phân tích 11 quốc gia

Câu hỏi: ‘Đối với một số người, điều quan trọng là giàu có. Đối với cá nhân bạn, việc trở nên giàu có quan trọng như thế nào?’

Trả lời: ‘Rất quan trọng’/’Khá quan trọng’

Lưu ý : Tất cả các số liệu theo tỷ lệ phần trăm của người trả lời

Nguồn : Khảo sát của Viện Allensbach 11.085, 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-18-031911-01-02, J-19-01009-29, J-19-01009-47, J-20-091774-05 và J-21-041026-01

  1. HỆ SỐ Ghen tị xã hội, HỆ SỐ ĐẶC ĐIỂM CÁ NHÂN VÀ CHỈ SỐ CẢM GIÁC GIÀU

Hệ số ghen tị xã hội (SEC) được phát triển cho dự án này cung cấp một dấu hiệu về tỷ lệ giữa những người ghen tị với những người không ghen tị ở bất kỳ quốc gia cụ thể nào (phương pháp xác định SEC được giải thích trong Zitelmann (2020a ; 2020b ; 2021). Giá trị 1,0 cho biết số lượng ‘người ghen tị’ và ‘người không ghen tị’ ở bất kỳ quốc gia cụ thể nào là bằng nhau. Trường hợp giá trị thấp hơn 1,0, số lượng người không ghen tị nhiều hơn; Trong đó giá trị lớn hơn 1,0, số lượng người ghen tị xã hội lớn hơn. Chúng tôi thấy rằng sự ghen tị xã hội ít rõ rệt hơn ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam so với trường hợp ở châu Âu và Hoa Kỳ. Ví dụ: ở Nhật Bản, SEC là 0,25 là mức thấp nhất trong số 11 quốc gia mà chúng tôi đã tiến hành khảo sát. Hàn Quốc có SEC chỉ 0,33, trong khi SEC của Việt Nam là 0,43. Ngược lại, SEC của Trung Quốc, ở mức 0,93, cao hơn đáng kể so với ba quốc gia châu Á khác. Trên thực tế, đây là mức cao thứ ba (sau Pháp và Đức) trong tổng số 11 quốc gia được khảo sát (Hình 2).

HÌNH 2 Hệ số ghen tị xã hội ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam

Lưu ý : Hệ số lớn hơn 1: những người ghen tị (2 hoặc 3 điểm trên Thang đo ghen tị xã hội) nhiều hơn những người không ghen tị (0 trên Thang đo ghen tị xã hội). Hệ số nhỏ hơn 1: số người không ghen tị nhiều hơn số người ghen tị

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

Vì những câu hỏi giống nhau đã được hỏi ở tất cả 11 quốc gia nên chúng tôi có cơ sở đáng tin cậy để so sánh. Tỷ lệ người không ghen tị ở Nhật Bản cao hơn bất kỳ quốc gia nào khác (57%). Ở Hàn Quốc và Việt Nam, tỷ lệ phần trăm ở mức cao tương tự như ở Hoa Kỳ và Anh quốc, chẳng hạn, lần lượt là 46 và 44%. Ngược lại, tỷ lệ người không ghen tị ở Trung Quốc, ở mức 27%, thấp hơn đáng kể so với ba quốc gia châu Á khác. Tỷ lệ người ghen tị là 25% ở Trung Quốc, 14% ở Nhật Bản, 15% ở Hàn Quốc và 19% ở Việt Nam (Hình 3).

HÌNH 3 Phân tích số người trả lời (%) theo vị trí trên Thang đo ghen tị xã hội ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

Hệ số ghen tị xã hội là một tham số quan trọng để so sánh mức độ ghen tị và thái độ đối với người giàu ở các quốc gia khác nhau, nhưng tất nhiên, nó không phải là tham số duy nhất. Ở tất cả các quốc gia được khảo sát, người trả lời được cung cấp danh sách bảy đặc điểm tính cách tích cực và bảy tiêu cực và được hỏi những đặc điểm nào trong số những đặc điểm này có khả năng áp dụng cho người giàu (Bảng 1).

BẢNG 1. Phân bổ các đặc điểm tính cách cho người giàu: xếp hạng (và %) ở bốn quốc gia

Trung Quốc Nhật Bản Hàn Quốc Việt Nam
Nặng về vật chất 1 (77) 6 (13) 1 (40) 6 = (29)
Táo bạo, táo bạo 2 (65) 5 = (16) 4 = (32) 3 (67)
Thông minh 3 (62) 2 = (24) 5 = (31) 2 (69)
Tham 4 (57) 2 = (24) 2 = (39) 7 (19)
giàu trí tưởng tượng 5 (45) 2 = (24) 8 (18) 5 (62)
Nhìn xa trông rộng 6 (44) 1 (37) 2 = (39) 1 (74)
Siêng năng 7 = (39) 3 (21) 5 = (31) 4 (63)
Lạc quan 7 = (39) 7 (12) 9 (12) 6 = (29)
Tự làm trung tâm 8 (35) 4 (17) 6 (29) 11 = (12)
Kiêu ngạo 9 (28) 5 = (16) 7 (21) 9 (17)
tàn nhẫn 10 (26) 9 (7) 4 = (32) 11 = (12)
Trung thực 11 (24) 11 (5) 10 (6) 10 (14)
Vô cảm 12 (20) 8 (11) 3 (36) 8 (18)
Hời hợt 13 (5) 10 (6) 11 (3) 12 (6)
  • Câu hỏi: ‘Điều nào, nếu có, sau đây có nhiều khả năng áp dụng nhất cho người giàu?’
  • Lưu ý: Người trả lời có thể chọn bất kỳ thuộc tính nào trong số 14 thuộc tính tính cách. Ví dụ: ở Trung Quốc, ‘Chủ nghĩa duy vật’ được 77% số người được hỏi đề cập đến, khiến nó trở thành mục được xếp hạng cao nhất

Nguồn: Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

Để so sánh dân số các quốc gia một cách trực tiếp hơn, sau đó chúng tôi đã tính tỷ lệ phần trăm trung bình của các đặc điểm tích cực (ví dụ: thông minh, cần cù…) và các đặc điểm tiêu cực (ví dụ: tự cho mình là trung tâm, tham lam…) cho mỗi quốc gia và chia hai tỷ lệ phần trăm này. để đạt được Hệ số Đặc điểm Tính cách (PTC). Điều đặc biệt đáng chú ý là những người Việt Nam cực kỳ tích cực khi được yêu cầu đánh giá các đặc điểm tính cách của người giàu: Việt Nam có PTC là 0,3, thấp nhất trong số 11 quốc gia được khảo sát. PTC của Nhật Bản (0,7) và Trung Quốc (0,8) cũng tương đối thấp. Và ở Hàn Quốc, PTC là 1.1, chẳng hạn như PTC của Hoa Kỳ và Thụy Điển (Bảng 2).

BẢNG 2. Hệ số đặc điểm tính cách

Nhật Bản Hàn Quốc Việt Nam Trung Quốc
Tỷ lệ phần trăm trung bình âm 13 27 16 35
Tỷ lệ phần trăm trung bình tích cực 20 24 54 45
Hệ số đặc điểm tính cách 0,7 1.1 0,3 0,8
  • Câu hỏi: ‘Điều nào, nếu có, sau đây có nhiều khả năng áp dụng nhất cho người giàu?’
  • Lưu ý: Tỷ lệ phần trăm trung bình của bảy đặc điểm tiêu cực chia cho tỷ lệ phần trăm trung bình của bảy đặc điểm tích cực.

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

Lấy Hệ số ghen tị xã hội (SEC) và Hệ số đặc điểm tính cách (PTC), sau đó chúng ta có thể tính Chỉ số cảm nhận về sự giàu có (RSI). Về cốt lõi, RSI là SEC được điều chỉnh bởi PTC. Vì SEC cuối cùng dựa trên ba câu hỏi, cụ thể là những câu hỏi xác định vị trí của người trả lời trên Thang đo ghen tị xã hội, nên SEC được xếp ba trọng số so với PTC, vốn chỉ liên quan đến mục đặc điểm tính cách. Chỉ số RSI thấp hơn ở Nhật Bản và Việt Nam là 0,4 và ở Hàn Quốc là 0,5, so với tất cả các quốc gia được khảo sát khác ngoại trừ Vương quốc Anh, nơi mà chỉ số này cũng là 0,5. Tại Trung Quốc, chỉ số RSI cao hơn, ở mức 0,9, bằng với mức trung bình của sáu quốc gia Châu Âu và Hoa Kỳ (Bảng 3).

BẢNG 3. Chỉ số tình cảm phong phú

Nhật Bản Hàn Quốc Việt Nam Trung Quốc
GIÂY 0,25 0,33 0,43 0,93
PTC 0,7 1.1 0,3 0,8
RSI 0,4 0,5 0,4 0,9
  • Ghi chú: Hệ số ghen tị xã hội (SEC), được điều chỉnh bởi Hệ số đặc điểm tính cách (PTC): RSI = (3SEC + 1PTC): 4.
  • RSI lớn hơn 1: khía cạnh tiêu cực nhiều hơn khía cạnh tích cực. RSI nhỏ hơn 1: khía cạnh tích cực nhiều hơn khía cạnh tiêu cực

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

Chỉ số RSI cung cấp một viễn cảnh đáng tin cậy về thái độ chung đối với người giàu ở bất kỳ quốc gia nào. Chẳng hạn, giờ đây chúng ta có thể thấy rằng quan điểm về người giàu ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam tích cực hơn nhiều so với ở nhiều nước châu Âu, trong khi ở Trung Quốc, người giàu được nhìn nhận theo cách tương tự như ở nhiều các nước phương Tây (Hình 4).

HÌNH 4. Chỉ số cảm nhận về sự giàu có ở 11 quốc gia

Lưu ý: RSI lớn hơn 1: khía cạnh tiêu cực nhiều hơn khía cạnh tích cực. RSI nhỏ hơn 1: khía cạnh tích cực nhiều hơn khía cạnh tiêu cực.

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 11.085, 8.271, khảo sát của Ipsos MORI 18–031911–01-02, 19–01009-29, 19–01009-47, 20–091774-05 và 21–041026-01

  1. SỰ KHÁC BIỆT THEO THU NHẬP, ĐỘ TUỔI VÀ GIỚI TÍNH

Ở hầu hết các quốc gia, những người có thu nhập thấp hơn thường bị xã hội ghen tị hơn những người có thu nhập rất cao. Đây cũng là trường hợp ở Trung Quốc, nơi các cá nhân trong hộ gia đình có thu nhập dưới 100.000 RMB ghen tị hơn nhiều (SEC 1,13) so với các cá nhân có thu nhập hộ gia đình trên 300.000 RMB, nơi mà SEC chỉ là 0,27.

Điều thú vị là chúng tôi không thấy sự khác biệt như vậy ở Nhật Bản: Hệ số ghen tị xã hội cao đối với những người có thu nhập thấp hơn (dưới 3 triệu yên), ở mức 0,25, còn đối với những người có thu nhập cao nhất (trên 10 triệu yên), ở mức 0,26. Ở Hàn Quốc, đố kỵ xã hội ở cả những người có thu nhập thấp và cao đều rất thấp, mặc dù nó thực sự thấp hơn một chút ở những người có thu nhập thấp (0,31) so với những người có thu nhập cao hơn (0,41). Ở Việt Nam, bức tranh đang có sự phân hóa: ở nhóm thu nhập thấp nhất (dưới 7,5 triệu đồng/năm) là 0,27; ở nhóm thu nhập thấp thứ hai (7,5 triệu – 11 triệu đồng) là 0,44; và ở nhóm có thu nhập cao nhất (23,5 triệu đồng trở lên) là 0,35.

Chúng ta đã thấy rằng ở một số quốc gia châu Âu, và đặc biệt là ở Hoa Kỳ, có sự khác biệt đáng kể về cảm nhận của những người trẻ hơn (dưới 30 tuổi) và những người lớn tuổi (trên 60 tuổi) về người giàu. Ở Hoa Kỳ, những người trẻ tuổi chỉ trích người giàu nhiều hơn những người lớn tuổi; ở Ý thì ngược lại.

Ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, sự khác biệt giữa các nhóm tuổi không quá lớn. Hệ số ghen tị xã hội ở Trung Quốc là 1,12 đối với người trả lời dưới 30 tuổi và 0,92 đối với người trả lời trên 60 tuổi. Ở Hàn Quốc, SEC là 0,24 đối với người trả lời dưới 30 tuổi và 0,34 đối với người trả lời trên 60 tuổi. Nhật Bản, SEC đối với những người trả lời trẻ tuổi là 0,27 và đối với những người trả lời lớn tuổi hơn là 0,15. Việt Nam có SEC là 0,49 đối với những người dưới 30 tuổi, cao hơn một chút so với những người lớn tuổi trên 55 tuổi có SEC là 0,35 (Hình 5).

HÌNH 5 Hệ số ghen tị xã hội đối với những người trả lời trẻ hơn và lớn tuổi hơn ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam

Lưu ý: Hệ số lớn hơn 1,0: những người ghen tị (cấp độ 2 và 3 trên Thang đo ghen tị xã hội) nhiều hơn những người không ghen tị (cấp độ 0 trên Thang đo ghen tị xã hội). Hệ số nhỏ hơn 1.0: số người không ghen tị nhiều hơn số người ghen tị

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

Đó là một vấn đề hoàn toàn khác khi những người trả lời trẻ hơn và lớn tuổi hơn được hỏi tầm quan trọng của việc trở nên giàu có hoặc trở nên giàu có đối với cá nhân họ. Chúng tôi đã thấy ở Hoa Kỳ và châu Âu (ngoại trừ Tây Ban Nha) có tỷ lệ lớn hơn những người trẻ hơn so với những người lớn tuổi hơn nói rằng việc trở nên giàu có hoặc trở nên giàu có là điều quan trọng đối với cá nhân họ. Đây cũng là trường hợp của Nhật Bản, nơi 50% những người dưới 30 tuổi nhưng chỉ 37% những người trên 60 tuổi nói rằng họ muốn giàu có. Ở Việt Nam, mô hình này giống như ở hầu hết các quốc gia được khảo sát, nhưng ở mức độ cao hơn nhiều: 80% người Việt Nam dưới 30 tuổi và 65% người Việt Nam trên 55 tuổi cho rằng điều quan trọng là họ trở nên hoặc trở nên giàu có. Ngược lại, ở Hàn Quốc, không có sự khác biệt: 57% người trẻ tuổi và 58% người lớn tuổi nói rằng điều quan trọng là họ phải trở nên giàu có. Cũng có một chút khác biệt ở Trung Quốc, với 51% những người dưới 30 tuổi và 46% những người trên 60 tuổi nói rằng điều quan trọng là họ phải giàu có (Hình 6).

HÌNH 6 Tầm quan trọng chủ quan của việc giàu có theo độ tuổi ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam (phần trăm)

Câu hỏi: ‘Đối với một số người, điều quan trọng là giàu có. Đối với cá nhân bạn, việc trở nên giàu có quan trọng như thế nào?’

Trả lời: ‘Rất quan trọng’/’Khá quan trọng’

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

Và những gì về sự khác biệt giữa các giới tính? Như chúng ta đã thấy, mong muốn trở nên giàu có thường phổ biến hơn ở nam giới so với nữ giới ở châu Âu và Hoa Kỳ. Điều tương tự cũng đúng ở Trung Quốc và Nhật Bản, nhưng không phải ở Hàn Quốc và Việt Nam. Hàn Quốc là quốc gia duy nhất – ngoài Tây Ban Nha – có tỷ lệ nam nữ cố gắng trở nên giàu có ngang nhau. Ở Việt Nam, các số liệu lại ngược lại: Ở đây, phụ nữ (80%) muốn trở nên giàu có nhiều hơn đáng kể so với nam giới (72%) (Hình 7).

HÌNH 7 Tầm quan trọng chủ quan của việc trở nên giàu có – phân tích 11 quốc gia theo giới tính (%)

Câu hỏi: ‘Đối với một số người, điều quan trọng là giàu có. Đối với cá nhân bạn, việc trở nên giàu có quan trọng như thế nào?’

Trả lời: ‘Rất quan trọng’/’Khá quan trọng’

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 11.085, 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-18-031911-01-02, J-19-01009-29, J-19-01009-47, J-20-091774-05 và J-21-041026-01

Một bức tranh khác biệt hơn xuất hiện khi Thang đo ghen tị xã hội cho từng quốc gia trong số 11 quốc gia được phân tích theo giới tính. Như các khảo sát trước đây của chúng tôi cho thấy, ở Đức, Ý và Pháp, phụ nữ hay ghen tị hơn nam giới. Ở Trung Quốc, phụ nữ cũng ghen tị hơn một chút (SEC 0,96) so với nam giới (0,88), trong khi ở Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Anh và Thụy Điển, bốn quốc gia phương Tây có Hệ số ghen tị xã hội thấp nhất, nam giới lại ghen tị nhiều hơn.

Ở Hàn Quốc, cả đàn ông và phụ nữ đều không đặc biệt ghen tị, nhưng ghen tị ở phụ nữ, với Hệ số ghen tị xã hội là 0,26, ít rõ rệt hơn so với nam giới (0,45). Tương tự, ở Nhật Bản, cả nam giới và nữ giới đều không đặc biệt ghen tị, nhưng ghen tị ở nữ giới, ở mức 0,20, thấp hơn một chút so với nam giới (0,31). Và ở Việt Nam, đố kỵ xã hội ở mức thấp như nhau đối với nam (0,48) và nữ (0,41) (Hình 8).

HÌNH 8 Hệ số ghen tị xã hội ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam – Phân tích theo giới tính

Lưu ý: Hệ số lớn hơn 1,0: những người ghen tị (cấp độ 2 và 3 trên Thang đo ghen tị xã hội) nhiều hơn những người không ghen tị (cấp độ 0 trên Thang đo ghen tị xã hội). Hệ số nhỏ hơn 1.0: số người không ghen tị nhiều hơn số người ghen tị

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

  1. AI XỨNG ĐÁNG GIÀU – VÀ AI KHÔNG

Nhiều cuộc khảo sát trước đây bao gồm những câu hỏi chung chung về thái độ của người trả lời đối với người giàu. Tuy nhiên, ý kiến ​​của mọi người về người giàu khác nhau đáng kể tùy thuộc vào cách một người trở nên giàu có. Ví dụ, ai đó đã xây dựng sự giàu có của họ với tư cách là một doanh nhân hay họ được thừa hưởng nó? Có phải ai đó đã trở nên giàu có nhờ một vận động viên ưu tú được trả lương cao, một người trúng xổ số hay một nhà đầu tư bất động sản? Để có cái nhìn sắc thái hơn về thái độ của những người được hỏi, câu hỏi sau đây đã được đặt ra ở cả bảy quốc gia: ‘Cá nhân bạn tin rằng nhóm người nào trong số những người sau đây xứng đáng được giàu có?’

Ở tất cả các quốc gia châu Âu được khảo sát và Hoa Kỳ, các doanh nhân và người tự kinh doanh được coi là xứng đáng nhất với sự giàu có của họ, tiếp theo là những người sáng tạo và nghệ sĩ (bao gồm cả diễn viên hoặc nhạc sĩ), vận động viên hàng đầu và người trúng xổ số. Ở hầu hết các quốc gia, các giám đốc ngân hàng cấp cao nằm trong số những nhóm có tài sản bị coi thường nhất, ngoại trừ ở Trung Quốc – nơi các chủ ngân hàng cấp cao rõ ràng được coi là những người xứng đáng nhất, tiếp theo là các doanh nhân.

Ở Hàn Quốc và Nhật Bản, thứ hạng ở nhiều khía cạnh giống như ở Châu Âu và Hoa Kỳ – với các doanh nhân đứng đầu và các chủ ngân hàng cấp cao ở cuối bảng. Điều đáng chú ý là những người được hỏi ở Nhật Bản ít có khả năng cảm thấy rằng những người thừa kế xứng đáng được giàu có hơn so với những người được hỏi ở bất kỳ quốc gia nào khác. Và, ở Việt Nam, một mô hình rất khác lại xuất hiện: mặc dù các doanh nhân ở Việt Nam được xếp hạng cao (ở vị trí thứ hai), nhưng những người được hỏi lại đánh giá cao một cách bất thường đối với các nhà đầu tư tài chính, đầu tư bất động sản và các nhà quản lý cấp cao. Mặt khác, thứ hạng thấp được trao cho những người tự kinh doanh rất có thể là do những người trả lời ở Việt Nam của chúng tôi có mối liên hệ rất khác với thuật ngữ ‘tư làm chủ’ so với những người trả lời ở Hoa Kỳ và Châu Âu, chẳng hạn (Bảng 4).

BẢNG 4. Ai xứng đáng được giàu có? Xếp hạng (và %) ở bốn quốc gia

Trung Quốc Hàn Quốc Nhật Bản Việt Nam
Nhân viên ngân hàng cao cấp 1 (81) 8 (13) 9 (8) 7 = (33)
Doanh nhân 2 (80) 1 (54) 1 (37) 2 (56)
Người thừa kế 3 (74) 5 (25) 10 (7) 7 = (33)
Vận động viên hàng đầu 4 (72) 2 (47) 2 (26) 6 (45)
Nhà đầu tư bất động sản 5 (58) 6 = (24) 6 (14) 3 (55)
Người sáng tạo, nghệ sĩ 6 (44) 4 = (32) 3 (22) 5 (46)
Quản lý cấp cao 7 (35) 7 (23) 7 (13) 4 (53)
Nhà đầu tư tài chính 8 (16) 4 = (32) 4 (17) 1 (62)
Tự làm chủ 9 (6) 3 (33) 5 (15) 9 (26)
Trúng xổ số 10 (5) 6 = (24) 8 (12) 8 (27)
  • Câu hỏi: ‘Cá nhân bạn, nếu có, nhóm người nào sau đây mà bạn tin rằng xứng đáng giàu có?’
  • Lưu ý: Những người được hỏi được mời chỉ ra bao nhiêu nhóm trong số 10 nhóm mà họ muốn. Ví dụ ở Trung Quốc, 80% số người được hỏi tin rằng các doanh nhân xứng đáng được giàu có và đây là phản hồi được xếp hạng cao thứ hai

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

  1. TRUNG THỰC: CẢM NHẬN CHUNG VÀ RIÊNG CỦA NGƯỜI GIÀU

Sau khi hỏi một mẫu toàn bộ dân số ở mỗi quốc gia này xem họ nghĩ gì về người giàu, chúng tôi đặt một câu hỏi tiếp theo cho những người được hỏi biết cá nhân ít nhất một người giàu.

Ở Hàn Quốc, chúng tôi định nghĩa ‘giàu’ là người có tài sản ròng trị giá hơn 1 tỷ KRW, ở Nhật Bản là người có tài sản ròng trị giá hơn 200 triệu JPY, ở Trung Quốc là người có tài sản ròng trị giá 2 triệu RMB và ở Việt Nam là người có tài sản ròng trị giá trên 10 tỷ đồng, luôn không bao gồm giá trị bất động sản của chính người đó. Ở châu Âu và Hoa Kỳ, chúng tôi định nghĩa ‘giàu’ là người có tài sản ròng trị giá hơn 1 triệu euro/USD, và ở Thụy Điển, chúng tôi đặt tiêu chuẩn ở mức 10 triệu curon.

Ở Nhật Bản, chỉ 17% số người được hỏi nói rằng họ có quen biết cá nhân với một người giàu có, ở Trung Quốc là 37% biết ít nhất một người giàu và ở Hàn Quốc, con số này là 43%. Ngược lại, ở Việt Nam, tỷ lệ này cao bất thường ở mức 69%. 2

Ở bốn quốc gia châu Âu nơi chúng tôi hỏi câu hỏi bổ sung này, đánh giá chung của dân số về đặc điểm tính cách của người giàu kém tích cực hơn nhiều so với đánh giá về người giàu mà họ biết. Điều này cũng đúng với Nhật Bản, Việt Nam và Hàn Quốc – mặc dù không phải với tất cả các đặc điểm tính cách.

Mặt khác, ở Trung Quốc, kết quả lại khác nhau: Những người được hỏi biết ít nhất một người giàu có nhiều khả năng nói rằng người giàu mà họ biết rõ nhất là người trung thực và ít có khả năng nói rằng họ tham lam. Đồng thời, và mâu thuẫn với điều này, số người Trung Quốc biết một người giàu nói rằng người giàu thông minh ít hơn đáng kể so với toàn bộ dân số.

Từ quan điểm đạo đức, ‘trung thực’ là một đặc điểm nhân cách đặc biệt quan trọng. Qua nghiên cứu tâm lý, chúng tôi biết rằng những giá trị ‘đạo đức’ như vậy quan trọng hơn nhiều trong việc hình thành đánh giá tổng thể về một người hoặc một nhóm xã hội so với cái gọi là giá trị ‘năng lực’ (chẳng hạn như cần cù hoặc thông minh).

Trong tổng số 14 đặc điểm tính cách, ‘trung thực’ là đặc điểm ít được lựa chọn nhất ở hầu hết các quốc gia mà chúng tôi khảo sát. Tỷ lệ phần trăm dao động từ 1% ở Ý và Tây Ban Nha đến 8% ở Hoa Kỳ. Ở Nhật Bản, chỉ 5% số người được hỏi cho rằng sự trung thực là do người giàu, và ở Hàn Quốc, đó là điều hiếm thứ hai với tỷ lệ 6% (chỉ có ‘hời hợt’ được ít người trả lời lựa chọn hơn ở mức 3%). Ở Việt Nam, 14% và ở Trung Quốc, 24% số người được hỏi mô tả người giàu là trung thực, cao hơn ở các quốc gia khác, nhưng lại chỉ xếp thứ 11 và 12, tương ứng, trong số 14 đặc điểm có thể.

Tuy nhiên, điều đáng chú ý là ở những quốc gia mà chúng tôi cũng đặt câu hỏi bổ sung cho nhóm nhỏ những người được hỏi mà cá nhân họ biết ít nhất một người giàu, chúng tôi thấy có sự khác biệt đáng kể trong các quy kết về đặc điểm ‘trung thực’. Những người được hỏi thực sự biết một hoặc nhiều người giàu có nhiều khả năng mô tả người giàu mà họ biết rõ nhất là trung thực hơn là các thành viên của toàn bộ dân số (Hình 9).

HÌNH 9 Người giàu có trung thực không? Phân tích tám quốc gia (phần trăm)

Câu hỏi: ‘Điều nào, nếu có, sau đây có nhiều khả năng áp dụng nhất cho người giàu?’

Câu hỏi bổ sung cho những người trả lời cá nhân biết ít nhất một người giàu: ‘Điều nào, nếu có, sau đây áp dụng cho người giàu mà bạn biết rõ nhất?’

Nguồn: Allensbacher khảo sát 11.085 và 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-18-031911-01-02, J-19-01009-29, J-19-01009-47, J-20-091774-05 và J-21-041026-01

Điều này khẳng định điều mà các nhà khoa học trong lĩnh vực nghiên cứu định kiến ​​đã xác định chắc chắn về mối quan hệ với các nhóm thiểu số khác trong xã hội: những người có kinh nghiệm cá nhân, gần gũi với một nhóm thiểu số có nhiều khả năng có thái độ tích cực đối với nhóm đó hơn những người có nhận thức được định hình bởi nhóm thiểu số đó. phương tiện truyền thông một mình. Như cuộc khảo sát của chúng tôi cho thấy, điều tương tự cũng áp dụng cho quan điểm của mọi người về người giàu với tư cách là thiểu số.

  1. THUẾ

Hầu hết những người được hỏi của chúng tôi đồng ý rằng người giàu nên trả mức thuế cao hơn người nghèo hoặc người có thu nhập trung bình; và đó là cách hệ thống thuế ở các quốc gia mà chúng tôi khảo sát đều được thiết kế để hoạt động. Nhưng các ý kiến ​​khác nhau về câu hỏi nên đánh thuế cao như thế nào. Ở tất cả các quốc gia châu Âu được khảo sát (ngoại trừ Thụy Điển) và ở Hoa Kỳ, số người được hỏi cho rằng người giàu không chỉ phải trả thuế cao mà còn phải nộp thuế rất cao nhiều hơn số người phản đối việc đánh thuế rất cao đối với người giàu. giàu có. Trong một số trường hợp, sự khác biệt là rất lớn. Chẳng hạn ở Pháp, 53% người được hỏi cho rằng người giàu nên đóng thuế rất cao và chỉ 19% cho rằng họ nên đóng thuế cao nhưng không rất cao.

Việt Nam là một ví dụ nổi bật về sự khác biệt giữa một bên là các nước châu Á, nơi mà sự giàu có được đánh giá cao, và bên kia là các nước châu Âu, nơi mà sự giàu có bị coi thường. Chẳng hạn, phát hiện của chúng tôi về điểm này ở Việt Nam hoàn toàn ngược lại với kết quả ở Pháp: 63% người Việt Nam cho rằng nên đánh thuế cao nhưng không quá cao đối với người giàu, trong khi chỉ có 21% ủng hộ đánh thuế rất cao đối với người giàu có.

Ở Nhật Bản cũng vậy, số người được hỏi đồng ý rằng thuế không nên quá cao vượt trội so với những người ủng hộ mức thuế rất cao, nhưng chỉ với một biên độ rất hẹp: 32% số người được hỏi ở Nhật Bản phản đối mức thuế rất cao đối với người giàu, so với 30% ủng hộ thuế rất cao.  Mặt khác, ở Hàn Quốc và Trung Quốc, xu hướng của câu hỏi này cũng giống như ở nhiều nước phương Tây: ở Hàn Quốc 45% và ở Trung Quốc 58% ủng hộ thuế rất cao và chỉ 30%. (Hàn Quốc) và 37% (Trung Quốc) cho rằng người giàu không nên bị đánh thuế quá mức (Hình 10).

HÌNH 10 Thuế rất cao đối với người giàu? Phân tích phản hồi từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam (phần trăm)

Câu hỏi: ‘Cuối cùng, bạn đồng ý với câu nào nhất trong các câu sau đây, nếu có?’

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

  1. LƯƠNG QUẢN LÝ

Nếu tôi được hỏi về những đặc điểm và đặc điểm đóng góp nhiều nhất vào thu nhập cao và sự giàu có của người giàu, cá nhân tôi sẽ đánh giá các yếu tố như ‘sáng tạo’ (đối với doanh nhân) hoặc ‘kỹ năng khan hiếm’ (đối với các nhà quản lý cấp cao, cấp cao nhất); vận động viên, nghệ sĩ… vượt xa ‘sự cần cù’.

Hầu hết mọi người hình thành hình ảnh của họ về những người giàu có từ những miêu tả trên phương tiện truyền thông hoặc bằng cách phóng chiếu trải nghiệm của chính họ lên họ. Do đó, đối với người lao động bình thường, kiếm được nhiều tiền hơn là vấn đề cần cù hơn, chẳng hạn như làm thêm giờ. Kinh nghiệm cá nhân dạy cho nhân viên rằng số tiền mà một người kiếm được phụ thuộc vào thời gian và mức độ chăm chỉ của họ. Do đó, những người có thái độ tích cực đối với người giàu có thể cho rằng người giàu đặc biệt cần cù, trong khi số người chỉ trích người giàu nhiều hơn – như kết quả khảo sát của chúng tôi chứng minh – lại coi người giàu là đặc biệt cần cù thì ít hơn đáng kể.

Thái độ của những người được hỏi đối với người giàu bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những giả định của họ về những yếu tố chính quyết định thu nhập của một cá nhân. Hiệu ứng này có thể được nhìn thấy trong ý kiến ​​của những người được hỏi về tiền lương của các nhà quản lý. Mức lương của một nhà quản lý không được quyết định, như nhiều người cho rằng, bởi số giờ anh ta hoặc cô ta làm việc, mà bởi cung và cầu trên thị trường dành cho những tài năng quản lý cấp cao nhất. Tuy nhiên, hầu hết mọi người ở châu Âu và Hoa Kỳ không nhận ra mối liên hệ này. Ở tất cả 11 quốc gia, những người tham gia khảo sát được hỏi liệu họ có đồng ý với những nhận định sau đây về những người quản lý kiếm được gấp 100 lần nhân viên của họ hay không:

  • Tuyên bố A
  • Tôi nghĩ rằng việc các nhà quản lý kiếm được nhiều tiền hơn như vậy là không phù hợp vì họ không làm việc lâu hơn và chăm chỉ hơn nhân viên của mình.
  • Tuyên bố B
  • Các công ty chỉ có thể thuê và giữ chân những nhà quản lý giỏi nhất nếu họ trả mức lương như vậy, nếu không những nhà quản lý này sẽ đến một công ty khác trả lương cao hơn hoặc họ sẽ làm việc cho chính họ.

Tuyên bố A ngụ ý rằng tiền lương cuối cùng được xác định, hoặc nên được xác định, bởi mức độ làm việc chăm chỉ và lâu dài của một người nào đó, và mức lương rất cao – nghĩa là, những mức lương không tỷ lệ thuận với nỗ lực làm thêm – là ‘không công bằng’. Mặt khác, Phát biểu B giả định rằng cung và cầu trên thị trường đối với các nhà quản lý cấp cao nhất là yếu tố chính quyết định mức lương của nhà quản lý (Hình 11).

HÌNH 11 Thái độ đối với mức lương quản lý cao ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam (%)

Câu hỏi: ‘Đây là một số phát biểu về sự khác biệt trong thu nhập được tìm thấy giữa những người quản lý kiếm được gấp 100 lần so với nhân viên của họ. Bạn sẽ đồng ý với câu nào trong số những câu này?’

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

Như chúng ta đã thấy, phần lớn những người được hỏi ở tất cả các nước châu Âu và Hoa Kỳ đã đồng ý với Tuyên bố A, ngụ ý rằng làm việc chăm chỉ hơn và lâu hơn sẽ đóng vai trò quyết định trong việc xác định mức lương của một cá nhân.

Tình hình lại khác ở Nhật Bản, nơi chỉ có 13% số người được hỏi nói rằng việc các nhà quản lý kiếm được gấp 100 lần so với nhân viên của họ là không phù hợp vì họ không làm việc lâu hơn và chăm chỉ hơn (để so sánh: 63% ở Đức, 46% ở Pháp, 39% ở Hoa Kỳ). Ngược lại, 18% đồng ý với tuyên bố rằng các công ty chỉ có thể tuyển dụng và giữ chân những nhà quản lý giỏi nhất nếu họ trả mức lương như vậy.

Ở Hàn Quốc, tình hình cũng tương tự như Nhật Bản: chỉ 13% số người được hỏi cho rằng việc người quản lý kiếm được gấp 100 lần nhân viên của họ là không phù hợp vì họ không làm việc lâu hơn và chăm chỉ hơn. Ngược lại, có tới 29% đồng ý với tuyên bố rằng các công ty chỉ có thể tuyển dụng và giữ chân những nhà quản lý giỏi nhất nếu họ trả mức lương như vậy.

Ở Việt Nam, sự khác biệt thể hiện rõ nhất ở câu hỏi này: chỉ 14% người Việt Nam cho rằng quản lý kiếm được gấp 100 lần nhân viên của mình là vô lý khi họ không làm việc lâu hơn và chăm chỉ hơn. Ngược lại, 45% người Việt Nam được hỏi đồng ý với nhận định rằng các công ty chỉ có thể tuyển dụng và giữ chân những nhà quản lý giỏi nhất nếu họ trả mức lương như vậy.

Một lần nữa, cũng như rất nhiều câu hỏi khác của cuộc khảo sát, câu trả lời của người Trung Quốc cũng tương tự như câu trả lời của người châu Âu và người Mỹ: 57% người Trung Quốc cho rằng việc các nhà quản lý kiếm được gấp 100 lần nhân viên của họ là vô lý, họ không làm việc lâu hơn và chăm chỉ hơn. Ngược lại, chỉ 33% số người Trung Quốc được hỏi đồng ý với nhận định rằng các công ty chỉ có thể tuyển dụng và giữ chân những nhà quản lý giỏi nhất nếu họ trả mức lương như vậy.

  1. KẾT LUẬN

Mong muốn trở nên giàu có ở các nước châu Á rõ rệt hơn nhiều so với ở châu Âu và Hoa Kỳ. Tại bốn quốc gia châu Á được khảo sát, trung bình 58% số người được hỏi bày tỏ sự đồng tình về điểm này, so với 28% ở châu Âu và Hoa Kỳ. Đây là sự khác biệt nổi bật nhất giữa một bên là Châu Á với bên kia là Châu Âu và Hoa Kỳ. Có nhiều yếu tố tác động ở đây: sự giàu có theo truyền thống đóng vai trò quan trọng hơn và có nhiều mối liên hệ tích cực hơn ở các nước châu Á so với nhiều nước châu Âu. Ngoài ra, các quốc gia như Trung Quốc và Việt Nam đương nhiên có nhu cầu lớn hơn để bắt kịp và người dân ở đó ‘đói hơn’ so với những người châu Âu đã quá no. Khát vọng làm giàu là một động lực quan trọng thúc đẩy tiến bộ kinh tế ở các quốc gia này.

Các khảo sát của chúng tôi xác nhận rằng sự ghen tị xã hội ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam thấp hơn so với trường hợp ở Châu Âu và Hoa Kỳ. Ngược lại, ở Trung Quốc, sự ghen tị xã hội rõ rệt hơn đáng kể so với ba quốc gia châu Á khác – và gần ngang bằng với Đức.

Dựa trên tất cả dữ liệu chúng tôi thu thập được, có thể kết luận chắc chắn rằng người dân Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam có thái độ tích cực hơn nhiều đối với người giàu so với người dân ở lục địa Châu Âu và Trung Quốc. Chỉ số cảm tính của người giàu, đo lường thái độ tổng thể đối với người giàu, trung bình là 0,9 ở Châu Âu và Hoa Kỳ, so với chỉ 0,5 ở Hàn Quốc, 0,4 ở Nhật Bản và 0,4 ở Việt Nam. Mặt khác, ở Trung Quốc, nó phù hợp với mức trung bình của các nước phương Tây là 0,9.

Gần như cùng thời điểm chúng tôi thực hiện khảo sát tại Việt Nam (tháng 7 và tháng 8 năm 2021), một nghiên cứu khác về thái độ đối với người giàu tại Việt Nam cũng được thực hiện bởi Hoàng Nam-Vũ và các đồng nghiệp tại Đại học Ngoại thương (FTU). Nghiên cứu của họ đã khảo sát 1.207 người Việt Nam và mặc dù sử dụng các câu hỏi khác nhau, nhưng nghiên cứu của họ cũng cho kết quả tương tự như nghiên cứu của tôi:

Chẳng hạn, trong cuộc khảo sát của Nam-Vu, chỉ có 5% số người được hỏi đồng ý với nhận định ‘Tôi rất ít thiện cảm với người giàu’, trong khi 64% không đồng ý. Chỉ 7% đồng ý với nhận định ‘Người giàu chỉ làm lợi cho mình chứ không phải cho người khác’, trong khi 72% không đồng ý. Và chỉ có 3% cho rằng ‘Người giàu không làm gì cho đất nước’, trong khi 89% không đồng ý (Vũ Hoàng-Nam và cộng sự, sắp xuất bản).

Nghiên cứu này khẳng định điều mà nghiên cứu của tôi đã chỉ ra không chỉ cho Việt Nam mà còn cho cả Hàn Quốc và Nhật Bản: sự ghen tị xã hội ít rõ rệt hơn ở các nước châu Á này so với ở châu Âu và Hoa Kỳ. Không giống như ở một số nước châu Âu, người giàu được coi là hình mẫu chứ không phải vật tế thần.

GHI CHÚ

  • 1 Tại Trung Quốc, cuộc khảo sát không được thực hiện bởi Ipsos MORI, mà bởi một đối tác của Viện Allensbach.
  • 2 Ban đầu, chúng tôi cho rằng tỷ lệ cao này ở Việt Nam là do sai sót trong quá trình thu thập dữ liệu và do đó, chúng tôi đã tiến hành khảo sát lại hai lần riêng biệt, chỉ để xác nhận kết quả ban đầu.

Quảng cáo

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here