[Tác giả: Nikolai Buzin, Tiến sĩ khoa học quân sự, Trợ lý Chủ tịch Hạ viện Quốc hội Belarus]
Đầu tháng 5/2023, Trung tâm ứng phó virus quốc gia và Công ty “An ninh mạng 360” của Trung Quốc đã công bố một bản báo cáo, trong đó cáo buộc sự tham gia của Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) vào việc tổ chức các cuộc “cách mạng màu” và các cuộc tấn công mạng trên khắp thế giới.
Phát hiện trên thực chất không mới nhưng vẫn thu hút một lượng lớn bình luận. Trong đó, nhận xét về vai trò của Washington và việc sử dụng Internet trong các cuộc “cách mạng màu”, các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho rằng, đây chỉ là phần nổi của tảng băng chìm trong các hoạt động nhằm duy trì sự ảnh hưởng của Mỹ.
Trong một cuộc phỏng vấn với báo giới Belarus và nước ngoài ngày 13/11/2020, Tổng thống Belarus Alexander Lukashenko nhận định rằng, bất kỳ cuộc “cách mạng màu” nào cũng làm cho nhà nước suy yếu đi và người dân nghèo hơn; không có nơi nào người dân lại sống tốt hơn sau những cuộc bạo loạn này. Theo ông Lukashenco, “phương thuốc đặc trị” cho vấn đề này là mở rộng và làm sâu sắc thêm các mối quan hệ song phương của Belarus và tham gia vào các tổ chức quốc tế như EAEU, CIS, CSTO trên các bình diện kinh tế, an ninh và ngoại giao.
Ai nắm giữ thông tin?
Thao túng tâm lý cá nhân và đám đông để đạt được mục tiêu trong chính trị quốc tế có lịch sử từ lâu. Trở lại những năm 1960 và 1970, khi đó Mỹ tin chắc rằng những nỗ lực trực tiếp đánh bại Liên Xô là không thể và họ đã bắt đầu chính sách phá hủy từ bên trong. Để làm được điều này, họ nhấn mạnh vào tâm lý học, quảng bá các giá trị phương Tây, thao túng thông tin và các công cụ của “quyền lực mềm”.
Việc thao túng tâm lý dựa trên các công nghệ hiện đại nhằm tạo dựng xung đột và quản trị xung đột. Nền tảng của ý tưởng khoa học này được Herbert Marcuse, Martin Heideger và một số nhà khoa học khác khởi xướng. Sau Thế chiến II, khía cạnh ứng dụng trong ý tưởng của họ đã được phát triển hơn nữa. Năm 1968, sự phát triển lý thuyết nêu trên đã thể hiện thành cuộc “cách mạng sinh viên” ở Pháp, dẫn đến việc Tổng thống Charles de Gaulle phải từ chức.
Tổng thống Mỹ thứ 37 Richard Nixon, người theo chủ nghĩa thực dụng Anglo-Saxon khái quát bản chất của quá trình thao túng tâm lý qua truyền thông đã tuyên bố: Một USD đầu tư vào thông tin và tuyên truyền có giá hơn 10 USD đầu tư vào việc tạo ra các hệ thống vũ khí, bởi vì vũ khí khó được sử dụng trong kinh doanh, trong khi thông tin thì hoạt động mọi lúc và mọi nơi.
Trong khi đó, Giáo sư J. Sharp của Đại học Harvard, Mỹ đã khái quát hóa việc sử dụng công nghệ trong các cuộc “cách mạng màu” vào năm 1973, cho rằng đó là một loại hoạt động thông tin được thực hiện bằng các phương pháp đấu tranh phi cổ điển (phương pháp phản kháng bất bạo động) nhằm thay đổi một chế độ chính trị hoặc lật đổ giới cầm quyền này để thay bằng những người khác.
Hiệu quả tối đa, chi phí tối thiểu
“Cách mạng màu” đã trở thành công cụ ưa thích của Washington trong quá trình “dân chủ hóa” thế giới vào cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Bộ Ngoại giao Mỹ và CIA là những “nhân vật” chính thực hiện chiến lược này trong nhiều thập kỷ. Lĩnh vực quan trọng nhất được sử dụng để tác động toàn diện đến cá nhân và xã hội là không gian mạng với các lĩnh vực như thông tin, truyền thông, giải trí.
Với sự ra đời của trang web thông tin toàn cầu Internet, quá trình thao túng tâm lý này đã đạt cấp độ toàn cầu và khả năng thao túng cũng đã tăng lên đáng kể.
Các sự kiện xảy ra trong không gian hậu Xô Viết, Bắc Phi, Trung Đông và Hong Kong (Trung Quốc) đã trở thành những ví dụ sinh động về hiệu quả của công nghệ “cách mạng màu”. Bước sang thế kỷ 21, giới khoa học phương Tây tiếp tục tìm kiếm những phương án tối ưu nhằm duy trì ảnh hưởng của mình trong thế giới hiện đại. Họ đưa ra hàng loạt lý thuyết như “tê liệt chiến lược”, “chặt đầu”, “sốc và kinh hoàng” và những lý thuyết khác với mục tiêu đạt hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất trong cuộc chiến bằng cách phá hủy đạo đức và tâm lý của giới lãnh đạo chính trị của quốc gia thù địch, thông qua việc sử dụng toàn bộ các phương tiện từ loại bỏ thể chất (ám sát) đến làm mất uy tín trong nước và cộng đồng thế giới.
Tấn công hỗn hợp
Lý thuyết về chiến tranh hỗn hợp của chuyên gia Lầu Năm góc Robert Bunker (1996) và của Frank G. Hoffman (2007) giữ một vị trí đặc biệt trong chiến lược của Mỹ. Các công cụ của chiến tranh hỗn hợp là các yếu tố của sức mạnh “mềm”, cho phép đạt được mục tiêu mà không cần quá nhiều sự phá hủy và thiệt hại vật chất, bằng cách hướng đến việc thay đổi hành vi, thay đổi lựa chọn, thay đổi nhận thức.
Ba hình thức gây ảnh hưởng bao gồm: thao túng thông tin của dân chúng và giới tinh hoa quốc gia nhằm làm mất uy tín của hệ thống chính trị hiện hành và giá trị truyền thống – văn hóa dân tộc; mở rộng kinh tế và tài chính, hình thành sự phụ thuộc vào các khoản vay bên ngoài; khuyến khích chủ nghĩa ly khai dân tộc.
Do bị thao túng thông tin một cách có chủ đích, một cá nhân bắt đầu hành động trên cơ sở các nhu cầu hư cấu được tạo ra một cách giả tạo, không nhận ra thực tế và tự gây hại cho bản thân cũng như cộng đồng. Để thực hiện hiệu quả kịch bản này, cần có nguồn “nguyên liệu” là một xã hội có trình độ học vấn thấp, nhu cầu trung bình, ít có khả năng tư duy sáng tạo và dễ bị ảnh hưởng bởi thông tin.
Để có được một xã hội như vậy làm “chất liệu”, các “nhà thiết kế” Mỹ giải quyết bằng cách đơn giản hóa và phổ cập hóa các chương trình giáo dục, áp đặt các tiêu chuẩn giáo dục cho các nước bên ngoài, tạo điều kiện lý tưởng cho những người nước ngoài tài năng làm việc trong các thực thể nghiên cứu của Mỹ. Do đó, chính tác động thông tin và tâm lý thông qua không gian mạng, chứ không phải quân sự, mới là yếu tố quyết định trong khuôn khổ của một cuộc chiến tranh hỗn hợp hiện đại.
Người hưởng lợi và nạn nhân
Không phải ngẫu nhiên mà không gian thông tin ngày nay trở thành đấu trường đối đầu khốc liệt. Hơn nữa, hoạt động trong lĩnh vực này được thực hiện trên hai lĩnh vực chính: thông tin – tâm lý và thông tin – kỹ thuật (phần mềm – công nghệ). Đối tượng tác động trong khuôn khổ thứ nhất là cá nhân, xã hội và nhà nước với tư cách là những đơn vị thông tin – tâm lý có khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin.
Mục tiêu của sự thao túng là hình thành thế giới quan, nguyên tắc, lý tưởng, khuôn mẫu hành vi cần thiết. Trên thực tế, đó là việc định dạng lại ý thức cá nhân và nhóm người, có tính đến các đặc điểm tâm lý. Liên quan đến phương diện này, các phương tiện truyền thông đại chúng, các hiệp hội chính thức và không chính thức, các phong trào thế tục và tôn giáo, cùng các công cụ khác được Mỹ sử dụng để thực hiện các giai đoạn của chương trình tâm lý. Chính đường hướng này mang tính quyết định về hiệu quả và cho phép họ thực hiện chức năng “thao túng tâm lý”.
Hợp phần thứ hai – công nghệ thông tin – nhằm phát triển các công nghệ cho phép hoạt động trong không gian mạng, tác động đến mảng thông tin, cơ sở hạ tầng và dữ liệu. Các cuộc tấn công của tin tặc, virus độc hại, gian lận dữ liệu và đánh cắp dữ liệu bí mật đều là những yếu tố tác động của công nghệ thông tin. Sự phát triển của công nghệ thúc đẩy thị trường và cho phép Mỹ tạo ra một môi trường có lợi nhuận cho các hoạt động như vậy. Các quốc gia kém tiềm lực khoa học và công nghệ buộc phải từ bỏ của cải có thực (tài nguyên thiên nhiên, tài sản hữu hình) để đổi lấy một sản phẩm ảo.
Ngày nay, thông tin đang trở thành một phương tiện phổ biến để đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị và quân sự. Do đó, xu hướng gia tăng sự phụ thuộc của xã hội và cá nhân vào thế giới ảo có tác động làm thay đổi quan niệm truyền thống của một người về bản thân, về thế giới xung quanh và về vị trí của mình trong đó. Không gian mạng đang được các lực lượng quân sự và cơ quan tình báo của nhiều quốc gia tích cực phát triển.
Mỹ và NATO đánh đồng một cách hợp pháp một cuộc tấn công mạng với một cuộc tấn công vũ trang và phân loại không gian mạng là một trong những lĩnh vực hoạt động quân sự. Điều này mở ra một trang mới trong lịch sử đối đầu giữa các quốc gia. Đối tượng của thông tin phá hoại và tác động là tâm lý của người dân, với nhiệm vụ là làm tổn hại đến đời sống tinh thần và đạo đức của người dân, ký ức lịch sử và văn hóa, thế giới quan, lý tưởng đạo đức của họ.
Mục tiêu quan trọng nhất của quá trình này là hình thành một xã hội tiêu dùng, không có cốt lõi bên trong và không thể chống lại sự bành trướng thông tin và tâm lý. Trong bối cảnh đó, các hệ thống nhà nước khác cần phải có các công cụ và đủ năng lực cần thiết để vô hiệu hóa các mối đe dọa an ninh hiện đại trong tương lai.
Tác giả: Ambrose Evans-Pritchard
Đăng trên The Telegraph London (AFR đã dẫn) ngày 04/05/2023 Dịch tk telegram: @MNewsstand
Vụ sụp đổ kép của ngành bất động sản thương mại và thị trường trái phiếu Hoa Kỳ giờ đã chạm tới 9.000 tỷ USD những khoản tiền gửi không có bảo hiểm trong hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ. Những khoản tiền gửi như thế có thể bốc hơi chỉ trong một buổi chiều trong thời đại công nghệ ngày nay.
Các vụ sụp đổ ngân hàng lớn thứ hai và thứ ba trong lịch sử nước Hoa Kỳ đã diễn ra nối tiếp nhau một cách nhanh chóng. Bộ Tài chính cùng Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED) muốn chúng ta tin rằng những sự kiện đó mang tính “đặc trưng”. Đó là một kiểu né tránh sự thật rất nguy hiểm.
Gần một nửa trong tổng số 4.800 ngân hàng của Hoa Kỳ đã và đang mất đi những khoản dự trữ đệm vốn của họ, và giờ đang hoạt động với mức vốn âm. Họ có thể không phải báo cáo tất cả những khoản lỗ của mình với thị trường theo luật kế toán Hoa Kỳ, nhưng điều đó không làm cho họ bỗng nhiên thoát vỡ nợ được. Ai đó rồi cũng sẽ phải chịu những khoản lỗ ấy.
“Thật đáng sợ. Hàng ngàn ngân hàng đang sắp chết đuối”, theo Giáo sư Amit Seru, một chuyên gia ngân hàng tại Đại học Stanford. “Chúng ta hãy ngừng giả vờ rằng điều này chỉ liên quan đến Silicon Valley Bank và First Republic. Một phần lớn hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ đang có khả năng vỡ nợ”.
Cú sốc toàn diện từ chính sách thắt chặt tiền tệ của FED vẫn chưa xảy ra. Một khoản nợ khổng lồ đang đứng bên bờ vực tái cơ cấu trong vòng 6 quý tới. Chỉ đến lúc đó chúng ta mới có thể biết được liệu hệ thống tài chính Hoa Kỳ có thể giảm bớt mức nợ quá cao do chính sách kích thích tiền tệ hết sức quyết liệt trong thời kỳ đại dịch một cách an toàn hay không.
Một báo cáo từ Viện Hoover do Giáo sư Seru cùng đồng tác giả là một nhóm các chuyên gia ngân hàng đã tính toán rằng hơn 2.315 ngân hàng Hoa Kỳ hiện đang sở hữu đống tài sản có giá trị thấp hơn nợ của họ. Giá trị thị trường của các danh mục cho vay của những ngân hàng này hiện thấp hơn 2.000 tỷ USD so với giá trị ghi trên sổ sách kế toán của họ.
Những ngân hàng cho vay bao gồm cả những gã khổng lồ. Một trong số 10 ngân hàng dễ bị tổn thương nhất là một thực thể có hệ thống kinh doanh toàn cầu và nắm trong tay số tài sản trị giá hơn 1.000 tỷ USD. 3 ngân hàng khác trong số đó cũng là những ngân hàng lớn. Ông Seru nói: “Đây không chỉ là vấn đề đối với những ngân hàng có giá trị dưới 250 tỷ USD, vốn không phải vượt qua những đợt kiểm tra khả năng hoạt động bền vững theo luật”.
Bộ Tài chính và Công ty Bảo hiểm Ký thác Liên bang Hoa Kỳ (FDIC) cho rằng họ đã kiểm soát được cuộc khủng hoảng bằng cách giải cứu những khách hàng gửi tiền không có bảo hiểm của Silicon Valley Bank và Signature bank bằng một cơ chế gọi là “ngoại lệ ngăn ngừa rủi ro hệ thống” sau khi những ngân hàng cho vay này sụp đổ trong tháng Ba vừa qua.
Nhà Trắng tỏ ra ngần ngại trước đề xuất yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ đứng ra bảo đảm toàn diện tất cả các khoản tiền gửi ngân hàng, bởi điều đó trông sẽ giống như là trợ cấp xã hội cho người giàu vậy. Bên cạnh đó, FDIC chỉ còn nắm khoảng 127 tỷ USD tài sản (và rất sớm thôi sẽ còn ít hơn thế) và có thể cuối cùng chính bản thân họ cũng sẽ cần phải được giải cứu.
Chính quyền Hoa Kỳ muốn để vấn đề này trong tình trạng mơ hồ hơn là trả lời rõ ràng, với hy vọng tất cả khách gửi tiền ngân hàng sẽ phân biệt được một lời bảo đảm ngầm. Canh bạc đó đã thua to. Khách gửi tiền đã tháo chạy khỏi First Republic Bank với tốc độ nhanh khủng khiếp hồi tuần trước, mặc cho một đợt bơm vốn khẩn cấp trị giá 30 tỷ USD trước đó từ một nhóm các ngân hàng lớn.
Những “hiệp sĩ” giải cứu đang dò xét khả năng mua lại First Republic đã khựng lại sau khi họ kiểm tra sổ sách của ngân hàng này và phát hiện ra quy mô thiệt hại từ mảng đầu tư bất động sản. FDIC đã phải quốc hữu hóa ngân hàng này, xóa sổ toàn bộ số tiền của cả cổ đông lẫn nhà đầu tư trái phiếu của họ. Chính phủ Hoa Kỳ đã mất 13 tỷ USD tiền trợ cấp trực tiếp cùng với 50 tỷ USD tiền cho vay để thu hút JP Morgan mua lại hết những gì còn sót lại.
“Sẽ không có đối tác nào chịu mua lại First Republic mà không có trợ cấp từ nhà nước”, theo Krishna Guha từ Evercore ISI. Ông này cảnh báo hàng trăm ngân hàng quy mô nhỏ và trung bình sẽ chuẩn bị tinh thần đối phó và thắt chặt hoạt động cho vay để tránh mắc phải số phận tương tự. Đây là cách mà một cuộc khủng hoảng tín dụng bắt đầu.
Cổ phiếu của PacWest, ngân hàng kế tiếp trong danh sách có nguy cơ vỡ nợ, đã mất 11% giá trị trong phiên giao dịch cuối ngày 1/5. Đó sẽ là hồi chuông cảnh báo cho những gì sắp diễn ra tiếp theo.
Chính quyền Hoa Kỳ có thể kiểm soát được cuộc khủng hoảng thanh khoản ngay trước mắt bằng cách tạm thời đứng ra bảo đảm tất cả các khoản tiền gửi. Nhưng điều đó không giải quyết được cuộc khủng hoảng khả năng thanh toán nợ có quy mô lớn hơn nhiều.
Giai đoạn cự tuyệt
Bộ Tài chính Hoa Kỳ và FDIC giờ vẫn đang ở trong giai đoạn chối bỏ sự thật. Họ đổ lỗi cho những vụ sụp đổ lên việc cho vay bừa bãi, quản lý yếu kém, và phụ thuộc quá mức vào những khách hàng gửi tiền có khả năng rời đi bất cứ lúc nào của một nhóm nhỏ các ngân hàng.
Điều này nghe rất quen. Giáo sư Seru cho biết: “Họ đã nói y hệt như thế khi Bear Stearns sụp đổ năm 2008. Mọi thứ rồi sẽ ổn thôi”.
First Republic cấp vốn vay cho các start-up công nghệ, nhưng họ chủ yếu vướng vào rắc rối trong mảng bất động sản thương mại. Họ sẽ không phải là ngân hàng cuối cùng rơi vào tình cảnh ấy. Các bất động sản tòa nhà văn phòng và khu công nghiệp đang ở giai đoạn đầu của một đợt suy thoái sâu. “Giai đoạn mà chúng ta đang ở trong hiện nay gần như là một cơn bão hoàn hảo”, theo Jeff Fine, chuyên gia bất động sản tại Goldman Sachs.
Ông nói: “Lãi suất đã tăng 4 đến 5% chỉ trong một năm, và thị trường vốn vay gần như đã đóng cửa hoàn toàn. Chúng tôi ước tính có khoảng 4.000-5.000 tỷ USD nợ trong mảng bất động sản thương mại, trong số đó khoảng 1.000 tỷ USD sắp đáo hạn trong vòng 12 đến 18 tháng tới”.
Các gói cho vay vốn bất động sản thương mại (CMBS) thường có thời gian đáo hạn ngắn và phải được tái cấp vốn cứ 2 đến 3 năm một lần. Hoạt động vay nợ đã bùng nổ trong thời kỳ đại dịch khi FED rót tràn ngập thanh khoản vào hệ thống tài chính. Khoản nợ nó sẽ đến hạn phải trả vào cuối năm 2023 và 2024.
Liệu những thiệt hại trên có tồi tệ như cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn (subprime) trước đây hay không? Có thể là không. Capital Economics cho biết bong bóng đầu tư trong mảng bất động sản nhà ở ở Hoa Kỳ đã leo lên đến đỉnh 6.5% GDP hồi năm 2007. Con số đem ra so sánh trong mảng bất động sản thương mại hiện nay là 2.6%.
Tuy nhiên mối đe dọa cũng không hề nhỏ chút nào. Giá bất động sản thương mại ở Hoa Kỳ trước mắt đã giảm 4 đến 5%. Capital Economics dự báo mức sụt giảm sâu nhất từ đỉnh sẽ là 22%. Điều này sẽ còn gây ra thêm nhiều thiệt hại lớn hơn nữa lên danh mụch cho vay của các ngân hàng địa phương, vốn chiếm tới 70% hoạt động cấp vốn vay trong ngành bất động sản thương mại.
Theo Nhà kinh tế trưởng của Capital Economics, Neil Shearing: “Trong tình huống tồi tệ nhất, nó có thể tạo ra một ‘vòng luẩn quẩn chết chóc’ có khả năng đẩy nhanh tốc độ của một suy thoái bất động sản thực thụ rồi lây lan ngược sang hệ thống ngân hàng”.
Những khó khăn của Silicon Valley Bank lại khác vậy. Tội lỗi của họ đó là đầu tư quá nhiều tiền gửi của khách hàng vào cái đáng ra là loại tài sản tài chính an toàn nhất trên thế giới: trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ. Họ đã được khuyến khích làm vậy theo những quy định phân bổ rủi ro (risk-weighting) từ các cơ quan quản lý Hiệp ước Ngân hàng Quốc tế Basel.
Một vài trong số những khoản đầu tư nợ này đã mất tới 20% giá trị đối với các trái phiếu kỳ hạn lâu dài – một kiểu thua lỗ theo lý thuyết chỉ trên giấy tờ cho đến lúc biến thành thật khi người ta phải bán chúng đi để đáp ứng khách hàng rút tiền gửi ồ ạt.
Chính quyền Hoa Kỳ nói ngân hàng này đáng ra nên đầu tư phòng hộ (hedging) khoản nợ trái phiếu chính phủ này bằng các loại chứng khoán lãi suất phái sinh (derivatives). Tuy nhiên như báo cáo Hoover đã ghi rõ, đầu tư phòng hộ chỉ đơn giản là chuyển thiệt hại từ ngân hàng này sang ngân hàng khác. Phía đối tác đứng ra bảo đảm hợp đồng phòng hộ thay vào đó sẽ đứng ra chịu lỗ.
Hành vi thất thường
Nguyên nhân gốc rễ của cuộc khủng hoảng trái phiếu và ngân hàng này nằm ở hành vi thất thường và những chính sách khích lệ có tính nuông chiều quá mức từ FED và Bộ Tài chính Hoa Kỳ trong suốt nhiều năm, mà đỉnh điểm là sự “quay xe” quyết liệt từ chính sách buông lỏng tiền tệ sang chính sách thắt chặt tiền tệ giờ đây đang diễn ra.
Ban đầu họ tạo ra “rủi ro lãi xuất” với quy mô khổng lồ: giờ thì họ đang cho nổ quả bom hẹn giờ trễ do chính họ tạo ra. Chris Whalen từ Institutional Risk Analyst nói chúng ta nên thận trọng trước luận điệu sai lầm đổ tất cả tội lỗi lên những ngân hàng hư hỏng: “Sự can thiệp quá mức vào thị trường mở của FED từ năm 2019 đến năm 2022 là lý do chính yếu cho sự sụp đổ của First Republic cũng như Silicon Valley Bank”.
Ông Whalen nói các ngân hàng và nhà đầu tư trái phiếu Hoa Kỳ (tức các quỹ hưu trí và công ty bảo hiểm) đang “nắm giữ” 5.000 tỷ USD thua lỗ “ẩn” trên lý thuyết do giai đoạn bùng nổ cuối cùng của cuộc thử nghiệm nới lỏng định lượng (QE) của FED để lại: “Khi mà các ngân hàng Hoa Kỳ chỉ nắm khoảng 2.000 tỷ USD vốn ròng, thực sự chúng ta đang có vấn đề”.
Ông này dự đoán khủng hoảng ngân hàng sẽ tiếp tục lan rộng từ những ngân hàng nhỏ ban đầu cho tới những ngân hàng quy mô lớn hơn cho đến khi nào FED dừng lại và giảm lãi suất xuống 1%. FED không hề có ý định dừng lại. Họ có kế hoạch tăng lãi suất cao hơn nữa. Họ tiếp tục bóp nghẹt nguồn cung tiền mặt của nước Hoa Kỳ với tốc độ kỷ lục với 95 tỷ USD thu hẹp định lượng (QT) mỗi tháng.
Sự thật kinh hoàng đó là ngân hàng trung ương của một cường quốc thế giới đã khiến mọi việc trở nên hỗn loạn tới mức họ chỉ còn cách lựa chọn giữa hai liều thuốc độc: hoặc là chào thua trước lạm phát; hoặc là để khủng hoảng ngân hàng leo lên đến mức độ hệ thống. Và họ đã chọn khủng hoảng ngân hàng.
Công ty được thành lập tại nước ngoài, đồng tiền mã hóa khi phát hành được neo vào những dự án có triển vọng, hồ sơ của những nhà sáng lập dự án rất đẹp và uy tín – Đó chính là cái bẫy đa cấp tinh vi rất khó nhận ra với những người đầu tư tiền ảo.
Hiện tại hình thức kinh doanh đa cấp vẫn hợp pháp tại Việt Nam. Nhưng gần đây ngoài các sản phẩm dịch vụ thật, xuất hiện một hình thức kinh doanh đa cấp mới là kêu gọi đầu tư tiền ảo theo mô hình đa cấp. Có vô số biến tướng của hình thức kinh doanh đa cấp này nhưng một trong những loại hình tinh vi nhất là đa cấp tiền ảo bằng tiền ảo. Qua đó, những nhà đầu tư tiền ảo được trả lợi nhuận bằng chính đồng tiền ảo mà mình đầu tư vào. Chỉ đến khi dự án sập hay đồng tiền ảo hạ giá trị đến gần bằng 0 thì nhà đầu tư mới nhận ra mình bị lừa.
Bẫy đa cấp tiền ảo bắt đầu từ một công ty quốc tế?
Một nhà đầu tư có kinh nghiệm luôn tìm hiểu khoản tiền của mình sẽ đi về đâu, được sử dụng như thế nào và khả năng sinh lời là bao nhiêu? Nhưng rất khó để nhận ra một dự án “ma” khi từ khởi đầu cho đến lúc kết thúc dự án này luôn “có vẻ” minh bạch và có tiềm năng lớn. Nhất là khi đồng tiền ảo của dự án (thường là tiền mã hóa) được phát hành tại một công ty ở nước ngoài, có vốn pháp định lớn, được neo vào những dự án có tiềm năng thương mại và hồ sơ cá nhân của những người đứng đầu dự án rất đẹp. Nhưng để làm những điều này thật ra rất đơn giản.
Một số công ty phát hành tiền mã hóa luôn chọn những đất nước có hành lang pháp lý tương đối cởi mở và cho phép hoạt động kinh doanh tiền ảo để thành lập công ty. Ví dụ như có đến 9/10 các công ty phát hành tiền mã hóa ở Việt Nam (có tư cách pháp nhân tại nước ngoài) được thành lập tại Belize. Đây là một quốc gia Trung Mỹ, nơi có thể thành lập công ty offshore (ngoại quốc) miễn thuế. Công ty đầu tư đặt tại nước này sẽ rất dễ dàng trong việc làm thủ tục, đăng kí. Chỉ cần một vị cổ đông đứng ra đăng kí là được, không có sự hạn chế về quốc tịch, cá nhân hoặc pháp nhân đều có thể đảm nhiệm ban quản trị của công ty, cổ đông của công ty mà không cần phải có sự ủy nhiệm của ban thư kí công ty.
Trên trang offshorecompanycorp.com có dịch vụ thành lập công ty tại Belize với giá chỉ từ 709 USD với phí duy trì công ty hàng năm vào khoảng 1.200 USD. Vốn pháp định của công ty thành lập tại đây thường được khai thấp nhằm giữ cho mức phí hàng năm ở mức tối thiểu. Đây là một khởi đầu an toàn, đáng tin cậy. Vậy là, chúng ta đã có một công ty phát hành tiền mã hóa quốc tế với chi phí rất rẻ. Tạm gọi công ty này là A. Vậy, giai đoạn tiếp theo A sẽ làm gì?
Tạo đồng tiền mã hóa, xây dựng sách trắng, hồ sơ cá nhân của lãnh đạo dự án?
Việc kinh doanh tiền ảo, lừa đảo đa cấp qua ảo (tiền mã hóa) được coi là lĩnh vực công nghệ cao. Nhưng thật sự thì việc tạo ra một đồng tiền như vậy không hề khó khăn. Với mã nguồn mở, dân công nghệ có thể chỉ mất một vài giờ đã tạo ra được một hợp đồng thông minh với một đồng tiền mã hóa mới (A token) do mình tự đặt tên với số lượng phát hành được định trước (ví dụ khoảng 21 triệu token giống như số lượng đồng Bitcoin được phát hành). Công ty A chúng ta vừa giả định ở trên có thể tạo ra một đồng tiền mã hóa theo công nghệ ERC-20 với đầy đủ tính năng của một đồng tiền ảo như: khả năng đào, đốt, có mã nguồn được xác thực… với mức giá chỉ khoảng 2.000 USD. Rất nhiều website hiện cung cấp dịch vụ này như Vittominacori hay Tokenmaker… Tiếp theo đó, công ty sẽ phải tạo ra một chương trình ví để người dùng có thể lưu trữ và giao dịch loại tiền này.
Song song với việc tạo ra đồng tiền ảo của riêng mình, công ty A sẽ phải trình bày về mục đích phát hành ra đồng tiền mã hóa A token. Và mục đích này sẽ được công ty A trình bày trong sách trắng (whitepaper) của công ty. Trong sách trắng, thường A sẽ nói về những dự án mà mình được thực hiện, hệ sinh thái mà mình sẽ tạo ra để đồng tiền được phát hành có thể tiêu thụ, có thể “đốt”, có tiềm năng về thương mại, thu hút người dùng. Việc vẽ ra các dự án không hề khó, như đồng tiền mã hóa Pi thời gian gần đây từng nói rằng Pi sẽ được sử dụng để mua các sản phẩm dịch vụ thật chứ không chỉ tồn tại trong thế giới ảo. Tại sao cần phải nói về dự án và phương thức đồng tiền sẽ được tiêu thụ?
Một đồng tiền chỉ có giá trị khi nó có thể trao đổi được. Đó chính là lý do mà các đồng tiền mã hóa luôn phải được những người sáng lập nó neo vào một dự án có tiềm năng. Ví dụ ở khoảng thời điểm 2 năm trước đây, các đồng tiền mã hóa thường neo vào các dự án game bài, nơi những người chơi cờ bạc dễ dàng đốt những đồng tiền này trong trò chơi, họ có thể mua tiền ảo và chơi trong trò chơi rồi lại đổi ra tiền thật (như Philippines có hành lang pháp lý chấp thuận vấn đề này). Như vậy, đồng tiền mã hóa sẽ có khả năng giao dịch nhờ đó tạo ra giá trị nội tại của chính mình. Ở thời điểm hiện tại, khi xu hướng tài chính phi tập trung DeFi nổi lên trong thế giới tiền mã hóa, các đồng tiền này thường được neo vào một dự án tài chính nào đó như cho vay ngang hàng, thế chấp tiền ảo, bảo hiểm tiền ảo… Nhưng không có gì đảm bảo rằng dự án được trình bày trong sách trắng không phải là một dự án ma.
Tiếp theo, A sẽ phải tạo ra hồ sơ cá nhân của những người lãnh đạo dự án. Rất nhiều dự án tiền ảo đang tồn tại trên thị trường đã làm điều này bằng cách đi thuê người đứng tên. Hồ sơ của người lãnh đạo dự án thường xuất hiện trên mạng xã hội việc làm LinkedIn với những chi tiết về bằng cấp, kinh nghiệm việc làm và uy tín rất ấn tượng. Nhưng khi dự án “sập” thì những hồ sơ này cũng biến mất ngay lập tức.
Và ban đầu công ty A đã tự tạo cho mình được một chút uy tín. Tiếp theo sẽ đến giai đoạn làm FOMO và niêm yết đồng token A lên các sàn tiền ảo và triển khai mô hình đa cấp tiền từ giai đoạn trước khi phát hành đồng tiền.
Đa cấp tiền ảo bằng tiền ảo hoạt động thế nào?
Giới đầu cơ, môi giới tiền ảo rất giỏi trong việc tạo hiệu ứng FOMO trên thị trường. FOMO (Sợ bị bỏ lỡ – Fear Of Missing Out) được nhà đầu tư mạo hiểm Patrick James McGinnis định nghĩa lần đầu tiên vào năm 2004. Nó là một chứng lo âu xã hội. Trong đó, một người tin rằng những người khác đang làm cho cuộc sống của họ trở nên tốt hơn, còn bản thân mình thì không, nên bị thôi thúc phải làm theo họ. Người môi giới tiền ảo sẽ truyền bá thông tin như token A có thể sẽ trở thành một hiện tượng như Bitcoin tiếp theo. Và xuất hiện một nỗi sợ bị bỏ lại. Nếu bạn không tham gia, tất cả sẽ trở thành triệu phú trừ bạn.
Ngoài ra, những người môi giới sẽ còn tổ chức các hội thảo, họ sẽ không nói về đồng tiền ảo này một cách trực tiếp mà đề cập đến tiềm năng của những dự án được đề cập trong sách trắng. Khi những nhà đầu tư thể hiện sự tin tưởng rõ ràng với dự án mà đồng tiền ảo này neo vào. Khi đó những nhà môi giới của A mới tung ra chiêu cuối cùng: Đa cấp tiền ảo bằng tiền ảo.
Khác với những chiêu trò lừa đảo tiền ảo khác mà người dùng bỏ tiền thật vẫn được trả lãi cho đến ngày họ không vào được website của hệ thống để giao dịch nữa, chiêu đa cấp tiền ảo bằng tiền ảo tinh vi hơn và gây hại lớn hơn cho những nhà đầu tư. Đơn giản, bởi số tiền lãi mà nhà đầu tư được trả lại chính là số tiền ảo mà họ mua. Ví dụ: ông B mua 1.000 token của dự án A với giá 1.000 USD, mỗi ngày ông B sẽ được trả lãi bằng 10 token. Hình thức đa cấp tiền ảo bằng tiền ảo thường được áp dụng từ giai đoạn ICO (Intial Coin Offering – Đợt phát hành tiền ảo đầu tiên), giai đoạn nhằm gây quỹ cho dự án trước khi đồng tiền được niêm yết chính thức.
Ở giai đoạn ICO, nhà đầu tư sẽ được mua với giá ưu đãi hơn nhiều so với giá mà nhà phát hành cam kết khi niêm yết trên sàn. Vẫn với mô hình kim tự tháp, những người ở đỉnh kim tự tháp sẽ được lợi nhuận nhiều hơn những người ở tầng thứ phía dưới. Nhưng tất cả lợi nhuận này đều phải trông chờ cho đến khi đồng tiền ảo A được niêm. Để giữ cho đồng tiền ảo mới ra không bị bán tháo ngay khi niêm yết, những công ty phát hành tiền ảo thường yêu cầu khóa số tiền của người sử dụng trong khoảng thời gian nhất định khoảng từ 3-6 tháng kể từ khi họ mua đồng tiền này. Và câu chuyện tiếp theo hoàn toàn dựa trên sự “hên – xui”.
Như đã nói trên, một đồng tiền chỉ có giá trị khi nó có khả năng giao dịch và để đồng tiền giao dịch được thì các dự án mà nhà phát hành tiền đề cập trong sách trắng phải có khả năng thành công. Trong khoảng thời gian 3-6 tháng kể từ khi chính thức niêm yết đồng tiền trên một sàn giao dịch, nếu các dự án không thành công, nhà đầu tư không còn tin tưởng, hoặc thị trường không còn niềm tin với đồng A nó sẽ trở về giá trị 0. Và vì khoản tiền trong tài khoản vẫn bị khóa, nên nhà đầu tư vào nó không còn cách gì ngoài hy vọng. Rồi thường thì họ sẽ mất trắng khoản đầu tư của mình.
Rất nhiều người đã không nhận ra để rồi sa vào cái bẫy rất đơn giản nhưng tinh vi của tiền mã hóa. Mọi chi tiết trong một dự án tiền mã hóa đều có thể được tạo ra hoàn hảo một cách giả tạo. Cuối cùng thì cuộc chơi tiền ảo vẫn là cuộc chơi của những nhà môi giới. Những nhà đầu tư mới cần phải cảnh tỉnh và tìm hiểu nhiều hơn thị trường đầy rủi ro và mạo hiểm này.
Tiệp Nguyễn – Bài đăng trên tạp chí giấy Nhà Đầu Tư tháng 5/2021.