fbpx

[Tác giả: Nikolai Buzin, Tiến sĩ khoa học quân sự, Trợ lý Chủ tịch Hạ viện Quốc hội Belarus]

Đầu tháng 5/2023, Trung tâm ứng phó virus quốc gia và Công ty “An ninh mạng 360” của Trung Quốc đã công bố một bản báo cáo, trong đó cáo buộc sự tham gia của Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) vào việc tổ chức các cuộc “cách mạng màu” và các cuộc tấn công mạng trên khắp thế giới.

Phát hiện trên thực chất không mới nhưng vẫn thu hút một lượng lớn bình luận. Trong đó, nhận xét về vai trò của Washington và việc sử dụng Internet trong các cuộc “cách mạng màu”, các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho rằng, đây chỉ là phần nổi của tảng băng chìm trong các hoạt động nhằm duy trì sự ảnh hưởng của Mỹ.

Trong một cuộc phỏng vấn với báo giới Belarus và nước ngoài ngày 13/11/2020, Tổng thống Belarus Alexander Lukashenko nhận định rằng, bất kỳ cuộc “cách mạng màu” nào cũng làm cho nhà nước suy yếu đi và người dân nghèo hơn; không có nơi nào người dân lại sống tốt hơn sau những cuộc bạo loạn này. Theo ông Lukashenco, “phương thuốc đặc trị” cho vấn đề này là mở rộng và làm sâu sắc thêm các mối quan hệ song phương của Belarus và tham gia vào các tổ chức quốc tế như EAEU, CIS, CSTO trên các bình diện kinh tế, an ninh và ngoại giao.

Ai nắm giữ thông tin?

Thao túng tâm lý cá nhân và đám đông để đạt được mục tiêu trong chính trị quốc tế có lịch sử từ lâu. Trở lại những năm 1960 và 1970, khi đó Mỹ tin chắc rằng những nỗ lực trực tiếp đánh bại Liên Xô là không thể và họ đã bắt đầu chính sách phá hủy từ bên trong. Để làm được điều này, họ nhấn mạnh vào tâm lý học, quảng bá các giá trị phương Tây, thao túng thông tin và các công cụ của “quyền lực mềm”.

Việc thao túng tâm lý dựa trên các công nghệ hiện đại nhằm tạo dựng xung đột và quản trị xung đột. Nền tảng của ý tưởng khoa học này được Herbert Marcuse, Martin Heideger và một số nhà khoa học khác khởi xướng. Sau Thế chiến II, khía cạnh ứng dụng trong ý tưởng của họ đã được phát triển hơn nữa. Năm 1968, sự phát triển lý thuyết nêu trên đã thể hiện thành cuộc “cách mạng sinh viên” ở Pháp, dẫn đến việc Tổng thống Charles de Gaulle phải từ chức.

Tổng thống Mỹ thứ 37 Richard Nixon, người theo chủ nghĩa thực dụng Anglo-Saxon khái quát bản chất của quá trình thao túng tâm lý qua truyền thông đã tuyên bố: Một USD đầu tư vào thông tin và tuyên truyền có giá hơn 10 USD đầu tư vào việc tạo ra các hệ thống vũ khí, bởi vì vũ khí khó được sử dụng trong kinh doanh, trong khi thông tin thì hoạt động mọi lúc và mọi nơi.

Trong khi đó, Giáo sư J. Sharp của Đại học Harvard, Mỹ đã khái quát hóa việc sử dụng công nghệ trong các cuộc “cách mạng màu” vào năm 1973, cho rằng đó là một loại hoạt động thông tin được thực hiện bằng các phương pháp đấu tranh phi cổ điển (phương pháp phản kháng bất bạo động) nhằm thay đổi một chế độ chính trị hoặc lật đổ giới cầm quyền này để thay bằng những người khác.

Hiệu quả tối đa, chi phí tối thiểu

“Cách mạng màu” đã trở thành công cụ ưa thích của Washington trong quá trình “dân chủ hóa” thế giới vào cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Bộ Ngoại giao Mỹ và CIA là những “nhân vật” chính thực hiện chiến lược này trong nhiều thập kỷ. Lĩnh vực quan trọng nhất được sử dụng để tác động toàn diện đến cá nhân và xã hội là không gian mạng với các lĩnh vực như thông tin, truyền thông, giải trí.

Với sự ra đời của trang web thông tin toàn cầu Internet, quá trình thao túng tâm lý này đã đạt cấp độ toàn cầu và khả năng thao túng cũng đã tăng lên đáng kể.

Các sự kiện xảy ra trong không gian hậu Xô Viết, Bắc Phi, Trung Đông và Hong Kong (Trung Quốc) đã trở thành những ví dụ sinh động về hiệu quả của công nghệ “cách mạng màu”. Bước sang thế kỷ 21, giới khoa học phương Tây tiếp tục tìm kiếm những phương án tối ưu nhằm duy trì ảnh hưởng của mình trong thế giới hiện đại. Họ đưa ra hàng loạt lý thuyết như “tê liệt chiến lược”, “chặt đầu”, “sốc và kinh hoàng” và những lý thuyết khác với mục tiêu đạt hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất trong cuộc chiến bằng cách phá hủy đạo đức và tâm lý của giới lãnh đạo chính trị của quốc gia thù địch, thông qua việc sử dụng toàn bộ các phương tiện từ loại bỏ thể chất (ám sát) đến làm mất uy tín trong nước và cộng đồng thế giới.

Ngày nay, thông tin đang trở thành một phương tiện phổ biến để đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị và quân sự.

Tấn công hỗn hợp

Lý thuyết về chiến tranh hỗn hợp của chuyên gia Lầu Năm góc Robert Bunker (1996) và của Frank G. Hoffman (2007) giữ một vị trí đặc biệt trong chiến lược của Mỹ. Các công cụ của chiến tranh hỗn hợp là các yếu tố của sức mạnh “mềm”, cho phép đạt được mục tiêu mà không cần quá nhiều sự phá hủy và thiệt hại vật chất, bằng cách hướng đến việc thay đổi hành vi, thay đổi lựa chọn, thay đổi nhận thức.

Ba hình thức gây ảnh hưởng bao gồm: thao túng thông tin của dân chúng và giới tinh hoa quốc gia nhằm làm mất uy tín của hệ thống chính trị hiện hành và giá trị truyền thống – văn hóa dân tộc; mở rộng kinh tế và tài chính, hình thành sự phụ thuộc vào các khoản vay bên ngoài; khuyến khích chủ nghĩa ly khai dân tộc.

Do bị thao túng thông tin một cách có chủ đích, một cá nhân bắt đầu hành động trên cơ sở các nhu cầu hư cấu được tạo ra một cách giả tạo, không nhận ra thực tế và tự gây hại cho bản thân cũng như cộng đồng. Để thực hiện hiệu quả kịch bản này, cần có nguồn “nguyên liệu” là một xã hội có trình độ học vấn thấp, nhu cầu trung bình, ít có khả năng tư duy sáng tạo và dễ bị ảnh hưởng bởi thông tin.

Để có được một xã hội như vậy làm “chất liệu”, các “nhà thiết kế” Mỹ giải quyết bằng cách đơn giản hóa và phổ cập hóa các chương trình giáo dục, áp đặt các tiêu chuẩn giáo dục cho các nước bên ngoài, tạo điều kiện lý tưởng cho những người nước ngoài tài năng làm việc trong các thực thể nghiên cứu của Mỹ. Do đó, chính tác động thông tin và tâm lý thông qua không gian mạng, chứ không phải quân sự, mới là yếu tố quyết định trong khuôn khổ của một cuộc chiến tranh hỗn hợp hiện đại.

Người hưởng lợi và nạn nhân

Không phải ngẫu nhiên mà không gian thông tin ngày nay trở thành đấu trường đối đầu khốc liệt. Hơn nữa, hoạt động trong lĩnh vực này được thực hiện trên hai lĩnh vực chính: thông tin – tâm lý và thông tin – kỹ thuật (phần mềm – công nghệ). Đối tượng tác động trong khuôn khổ thứ nhất là cá nhân, xã hội và nhà nước với tư cách là những đơn vị thông tin – tâm lý có khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin.

Mục tiêu của sự thao túng là hình thành thế giới quan, nguyên tắc, lý tưởng, khuôn mẫu hành vi cần thiết. Trên thực tế, đó là việc định dạng lại ý thức cá nhân và nhóm người, có tính đến các đặc điểm tâm lý. Liên quan đến phương diện này, các phương tiện truyền thông đại chúng, các hiệp hội chính thức và không chính thức, các phong trào thế tục và tôn giáo, cùng các công cụ khác được Mỹ sử dụng để thực hiện các giai đoạn của chương trình tâm lý. Chính đường hướng này mang tính quyết định về hiệu quả và cho phép họ thực hiện chức năng “thao túng tâm lý”.

Hợp phần thứ hai – công nghệ thông tin – nhằm phát triển các công nghệ cho phép hoạt động trong không gian mạng, tác động đến mảng thông tin, cơ sở hạ tầng và dữ liệu. Các cuộc tấn công của tin tặc, virus độc hại, gian lận dữ liệu và đánh cắp dữ liệu bí mật đều là những yếu tố tác động của công nghệ thông tin. Sự phát triển của công nghệ thúc đẩy thị trường và cho phép Mỹ tạo ra một môi trường có lợi nhuận cho các hoạt động như vậy. Các quốc gia kém tiềm lực khoa học và công nghệ buộc phải từ bỏ của cải có thực (tài nguyên thiên nhiên, tài sản hữu hình) để đổi lấy một sản phẩm ảo.

Ngày nay, thông tin đang trở thành một phương tiện phổ biến để đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị và quân sự. Do đó, xu hướng gia tăng sự phụ thuộc của xã hội và cá nhân vào thế giới ảo có tác động làm thay đổi quan niệm truyền thống của một người về bản thân, về thế giới xung quanh và về vị trí của mình trong đó. Không gian mạng đang được các lực lượng quân sự và cơ quan tình báo của nhiều quốc gia tích cực phát triển.

Mỹ và NATO đánh đồng một cách hợp pháp một cuộc tấn công mạng với một cuộc tấn công vũ trang và phân loại không gian mạng là một trong những lĩnh vực hoạt động quân sự. Điều này mở ra một trang mới trong lịch sử đối đầu giữa các quốc gia. Đối tượng của thông tin phá hoại và tác động là tâm lý của người dân, với nhiệm vụ là làm tổn hại đến đời sống tinh thần và đạo đức của người dân, ký ức lịch sử và văn hóa, thế giới quan, lý tưởng đạo đức của họ.

Mục tiêu quan trọng nhất của quá trình này là hình thành một xã hội tiêu dùng, không có cốt lõi bên trong và không thể chống lại sự bành trướng thông tin và tâm lý. Trong bối cảnh đó, các hệ thống nhà nước khác cần phải có các công cụ và đủ năng lực cần thiết để vô hiệu hóa các mối đe dọa an ninh hiện đại trong tương lai.

Rainer Zitelmann – Xuất bản lần đầu:10 Tháng bảy 2022 

https://doi.org/10.1111/ecaf.12524

Bài viết này dựa trên các cuộc khảo sát được thực hiện ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam là một phần của dự án Người giàu có trong dư luận. Trong khi ở các nước phương Tây, 28% số người được hỏi cho rằng điều quan trọng là phải trở nên giàu có thì ở các nước châu Á được khảo sát, con số này là 58%. Sự ghen tị xã hội nhắm vào người giàu ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam thấp hơn nhiều so với ở Châu Âu và Hoa Kỳ. Trong khi ở Trung Quốc, nó ở mức tương tự như ở một số nước phương Tây. Đặc biệt, thái độ của người dân đối với người giàu ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam tích cực hơn nhiều so với các nước phương Tây, trong khi ở Trung Quốc, thái độ của họ tương tự như ở châu Âu.

  1. GIỚI THIỆU

Trong các số báo Kinh tế trước đây (Zitelmann,  2020b ; 2021 ), tôi đã trình bày những phát hiện của dự án nghiên cứu Người giàu có trong dư luận (Zitelmann,  2020a ). Vào thời điểm đó, dự án đã phân tích dữ liệu khảo sát về thái độ của công chúng đối với người giàu từ 7 quốc gia – Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Ý, Thụy Điển và Tây Ban Nha. Kể từ đó, nghiên cứu đã được tiếp tục và cuộc khảo sát tương tự cũng đã được thực hiện ở Trung Quốc (vào tháng 5 năm 2021) và ở Hàn Quốc, Việt Nam và Nhật Bản (vào tháng 9 năm 2021). Ở mỗi quốc gia, Ipsos MORI đã khảo sát khoảng 1.000 người được hỏi.

  1. ĐỐI VỚI NGƯỜI CHÂU Á, GIÀU LÀ QUAN TRỌNG

Một trong những mục khảo sát hỏi người trả lời tầm quan trọng của việc trở nên giàu có hoặc cá nhân họ trở nên giàu có. Tại 6 quốc gia Châu Âu và Hoa Kỳ, trung bình 28% số người được hỏi cho biết việc trở nên giàu có là “rất quan trọng” hoặc “tương đối quan trọng” đối với cá nhân họ, với con số ở từng quốc gia chỉ dao động từ 19% ở Anh quốc đến 36% ở Ý.

Vòng khảo sát mới nhất của chúng tôi xác nhận rằng con số này cao hơn ở tất cả các nước châu Á: 43% ở Nhật Bản, 50% ở Trung Quốc, 63% ở Hàn Quốc và cao tới 76% ở Việt Nam. Do đó, tỷ lệ phần trăm trung bình ở bốn quốc gia châu Á là 58%, cao hơn 30 điểm phần trăm so với ở châu Âu và Hoa Kỳ. Người dân trên khắp châu Á đang khao khát thành công hơn – và điều này phần nào giải thích mức độ năng động kinh tế cao hơn trên khắp lục địa, đặc biệt là ở các quốc gia như Trung Quốc và Việt Nam (Hình 1).

HÌNH 1 Tại sao giàu có lại quan trọng? Phân tích 11 quốc gia

Câu hỏi: ‘Đối với một số người, điều quan trọng là giàu có. Đối với cá nhân bạn, việc trở nên giàu có quan trọng như thế nào?’

Trả lời: ‘Rất quan trọng’/’Khá quan trọng’

Lưu ý : Tất cả các số liệu theo tỷ lệ phần trăm của người trả lời

Nguồn : Khảo sát của Viện Allensbach 11.085, 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-18-031911-01-02, J-19-01009-29, J-19-01009-47, J-20-091774-05 và J-21-041026-01

  1. HỆ SỐ Ghen tị xã hội, HỆ SỐ ĐẶC ĐIỂM CÁ NHÂN VÀ CHỈ SỐ CẢM GIÁC GIÀU

Hệ số ghen tị xã hội (SEC) được phát triển cho dự án này cung cấp một dấu hiệu về tỷ lệ giữa những người ghen tị với những người không ghen tị ở bất kỳ quốc gia cụ thể nào (phương pháp xác định SEC được giải thích trong Zitelmann (2020a ; 2020b ; 2021). Giá trị 1,0 cho biết số lượng ‘người ghen tị’ và ‘người không ghen tị’ ở bất kỳ quốc gia cụ thể nào là bằng nhau. Trường hợp giá trị thấp hơn 1,0, số lượng người không ghen tị nhiều hơn; Trong đó giá trị lớn hơn 1,0, số lượng người ghen tị xã hội lớn hơn. Chúng tôi thấy rằng sự ghen tị xã hội ít rõ rệt hơn ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam so với trường hợp ở châu Âu và Hoa Kỳ. Ví dụ: ở Nhật Bản, SEC là 0,25 là mức thấp nhất trong số 11 quốc gia mà chúng tôi đã tiến hành khảo sát. Hàn Quốc có SEC chỉ 0,33, trong khi SEC của Việt Nam là 0,43. Ngược lại, SEC của Trung Quốc, ở mức 0,93, cao hơn đáng kể so với ba quốc gia châu Á khác. Trên thực tế, đây là mức cao thứ ba (sau Pháp và Đức) trong tổng số 11 quốc gia được khảo sát (Hình 2).

HÌNH 2 Hệ số ghen tị xã hội ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam

Lưu ý : Hệ số lớn hơn 1: những người ghen tị (2 hoặc 3 điểm trên Thang đo ghen tị xã hội) nhiều hơn những người không ghen tị (0 trên Thang đo ghen tị xã hội). Hệ số nhỏ hơn 1: số người không ghen tị nhiều hơn số người ghen tị

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

Vì những câu hỏi giống nhau đã được hỏi ở tất cả 11 quốc gia nên chúng tôi có cơ sở đáng tin cậy để so sánh. Tỷ lệ người không ghen tị ở Nhật Bản cao hơn bất kỳ quốc gia nào khác (57%). Ở Hàn Quốc và Việt Nam, tỷ lệ phần trăm ở mức cao tương tự như ở Hoa Kỳ và Anh quốc, chẳng hạn, lần lượt là 46 và 44%. Ngược lại, tỷ lệ người không ghen tị ở Trung Quốc, ở mức 27%, thấp hơn đáng kể so với ba quốc gia châu Á khác. Tỷ lệ người ghen tị là 25% ở Trung Quốc, 14% ở Nhật Bản, 15% ở Hàn Quốc và 19% ở Việt Nam (Hình 3).

HÌNH 3 Phân tích số người trả lời (%) theo vị trí trên Thang đo ghen tị xã hội ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

Hệ số ghen tị xã hội là một tham số quan trọng để so sánh mức độ ghen tị và thái độ đối với người giàu ở các quốc gia khác nhau, nhưng tất nhiên, nó không phải là tham số duy nhất. Ở tất cả các quốc gia được khảo sát, người trả lời được cung cấp danh sách bảy đặc điểm tính cách tích cực và bảy tiêu cực và được hỏi những đặc điểm nào trong số những đặc điểm này có khả năng áp dụng cho người giàu (Bảng 1).

BẢNG 1. Phân bổ các đặc điểm tính cách cho người giàu: xếp hạng (và %) ở bốn quốc gia

Trung Quốc Nhật Bản Hàn Quốc Việt Nam
Nặng về vật chất 1 (77) 6 (13) 1 (40) 6 = (29)
Táo bạo, táo bạo 2 (65) 5 = (16) 4 = (32) 3 (67)
Thông minh 3 (62) 2 = (24) 5 = (31) 2 (69)
Tham 4 (57) 2 = (24) 2 = (39) 7 (19)
giàu trí tưởng tượng 5 (45) 2 = (24) 8 (18) 5 (62)
Nhìn xa trông rộng 6 (44) 1 (37) 2 = (39) 1 (74)
Siêng năng 7 = (39) 3 (21) 5 = (31) 4 (63)
Lạc quan 7 = (39) 7 (12) 9 (12) 6 = (29)
Tự làm trung tâm 8 (35) 4 (17) 6 (29) 11 = (12)
Kiêu ngạo 9 (28) 5 = (16) 7 (21) 9 (17)
tàn nhẫn 10 (26) 9 (7) 4 = (32) 11 = (12)
Trung thực 11 (24) 11 (5) 10 (6) 10 (14)
Vô cảm 12 (20) 8 (11) 3 (36) 8 (18)
Hời hợt 13 (5) 10 (6) 11 (3) 12 (6)

Nguồn: Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

Để so sánh dân số các quốc gia một cách trực tiếp hơn, sau đó chúng tôi đã tính tỷ lệ phần trăm trung bình của các đặc điểm tích cực (ví dụ: thông minh, cần cù…) và các đặc điểm tiêu cực (ví dụ: tự cho mình là trung tâm, tham lam…) cho mỗi quốc gia và chia hai tỷ lệ phần trăm này. để đạt được Hệ số Đặc điểm Tính cách (PTC). Điều đặc biệt đáng chú ý là những người Việt Nam cực kỳ tích cực khi được yêu cầu đánh giá các đặc điểm tính cách của người giàu: Việt Nam có PTC là 0,3, thấp nhất trong số 11 quốc gia được khảo sát. PTC của Nhật Bản (0,7) và Trung Quốc (0,8) cũng tương đối thấp. Và ở Hàn Quốc, PTC là 1.1, chẳng hạn như PTC của Hoa Kỳ và Thụy Điển (Bảng 2).

BẢNG 2. Hệ số đặc điểm tính cách

Nhật Bản Hàn Quốc Việt Nam Trung Quốc
Tỷ lệ phần trăm trung bình âm 13 27 16 35
Tỷ lệ phần trăm trung bình tích cực 20 24 54 45
Hệ số đặc điểm tính cách 0,7 1.1 0,3 0,8

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

Lấy Hệ số ghen tị xã hội (SEC) và Hệ số đặc điểm tính cách (PTC), sau đó chúng ta có thể tính Chỉ số cảm nhận về sự giàu có (RSI). Về cốt lõi, RSI là SEC được điều chỉnh bởi PTC. Vì SEC cuối cùng dựa trên ba câu hỏi, cụ thể là những câu hỏi xác định vị trí của người trả lời trên Thang đo ghen tị xã hội, nên SEC được xếp ba trọng số so với PTC, vốn chỉ liên quan đến mục đặc điểm tính cách. Chỉ số RSI thấp hơn ở Nhật Bản và Việt Nam là 0,4 và ở Hàn Quốc là 0,5, so với tất cả các quốc gia được khảo sát khác ngoại trừ Vương quốc Anh, nơi mà chỉ số này cũng là 0,5. Tại Trung Quốc, chỉ số RSI cao hơn, ở mức 0,9, bằng với mức trung bình của sáu quốc gia Châu Âu và Hoa Kỳ (Bảng 3).

BẢNG 3. Chỉ số tình cảm phong phú

Nhật Bản Hàn Quốc Việt Nam Trung Quốc
GIÂY 0,25 0,33 0,43 0,93
PTC 0,7 1.1 0,3 0,8
RSI 0,4 0,5 0,4 0,9

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

Chỉ số RSI cung cấp một viễn cảnh đáng tin cậy về thái độ chung đối với người giàu ở bất kỳ quốc gia nào. Chẳng hạn, giờ đây chúng ta có thể thấy rằng quan điểm về người giàu ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam tích cực hơn nhiều so với ở nhiều nước châu Âu, trong khi ở Trung Quốc, người giàu được nhìn nhận theo cách tương tự như ở nhiều các nước phương Tây (Hình 4).

HÌNH 4. Chỉ số cảm nhận về sự giàu có ở 11 quốc gia

Lưu ý: RSI lớn hơn 1: khía cạnh tiêu cực nhiều hơn khía cạnh tích cực. RSI nhỏ hơn 1: khía cạnh tích cực nhiều hơn khía cạnh tiêu cực.

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 11.085, 8.271, khảo sát của Ipsos MORI 18–031911–01-02, 19–01009-29, 19–01009-47, 20–091774-05 và 21–041026-01

  1. SỰ KHÁC BIỆT THEO THU NHẬP, ĐỘ TUỔI VÀ GIỚI TÍNH

Ở hầu hết các quốc gia, những người có thu nhập thấp hơn thường bị xã hội ghen tị hơn những người có thu nhập rất cao. Đây cũng là trường hợp ở Trung Quốc, nơi các cá nhân trong hộ gia đình có thu nhập dưới 100.000 RMB ghen tị hơn nhiều (SEC 1,13) so với các cá nhân có thu nhập hộ gia đình trên 300.000 RMB, nơi mà SEC chỉ là 0,27.

Điều thú vị là chúng tôi không thấy sự khác biệt như vậy ở Nhật Bản: Hệ số ghen tị xã hội cao đối với những người có thu nhập thấp hơn (dưới 3 triệu yên), ở mức 0,25, còn đối với những người có thu nhập cao nhất (trên 10 triệu yên), ở mức 0,26. Ở Hàn Quốc, đố kỵ xã hội ở cả những người có thu nhập thấp và cao đều rất thấp, mặc dù nó thực sự thấp hơn một chút ở những người có thu nhập thấp (0,31) so với những người có thu nhập cao hơn (0,41). Ở Việt Nam, bức tranh đang có sự phân hóa: ở nhóm thu nhập thấp nhất (dưới 7,5 triệu đồng/năm) là 0,27; ở nhóm thu nhập thấp thứ hai (7,5 triệu – 11 triệu đồng) là 0,44; và ở nhóm có thu nhập cao nhất (23,5 triệu đồng trở lên) là 0,35.

Chúng ta đã thấy rằng ở một số quốc gia châu Âu, và đặc biệt là ở Hoa Kỳ, có sự khác biệt đáng kể về cảm nhận của những người trẻ hơn (dưới 30 tuổi) và những người lớn tuổi (trên 60 tuổi) về người giàu. Ở Hoa Kỳ, những người trẻ tuổi chỉ trích người giàu nhiều hơn những người lớn tuổi; ở Ý thì ngược lại.

Ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, sự khác biệt giữa các nhóm tuổi không quá lớn. Hệ số ghen tị xã hội ở Trung Quốc là 1,12 đối với người trả lời dưới 30 tuổi và 0,92 đối với người trả lời trên 60 tuổi. Ở Hàn Quốc, SEC là 0,24 đối với người trả lời dưới 30 tuổi và 0,34 đối với người trả lời trên 60 tuổi. Nhật Bản, SEC đối với những người trả lời trẻ tuổi là 0,27 và đối với những người trả lời lớn tuổi hơn là 0,15. Việt Nam có SEC là 0,49 đối với những người dưới 30 tuổi, cao hơn một chút so với những người lớn tuổi trên 55 tuổi có SEC là 0,35 (Hình 5).

HÌNH 5 Hệ số ghen tị xã hội đối với những người trả lời trẻ hơn và lớn tuổi hơn ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam

Lưu ý: Hệ số lớn hơn 1,0: những người ghen tị (cấp độ 2 và 3 trên Thang đo ghen tị xã hội) nhiều hơn những người không ghen tị (cấp độ 0 trên Thang đo ghen tị xã hội). Hệ số nhỏ hơn 1.0: số người không ghen tị nhiều hơn số người ghen tị

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

Đó là một vấn đề hoàn toàn khác khi những người trả lời trẻ hơn và lớn tuổi hơn được hỏi tầm quan trọng của việc trở nên giàu có hoặc trở nên giàu có đối với cá nhân họ. Chúng tôi đã thấy ở Hoa Kỳ và châu Âu (ngoại trừ Tây Ban Nha) có tỷ lệ lớn hơn những người trẻ hơn so với những người lớn tuổi hơn nói rằng việc trở nên giàu có hoặc trở nên giàu có là điều quan trọng đối với cá nhân họ. Đây cũng là trường hợp của Nhật Bản, nơi 50% những người dưới 30 tuổi nhưng chỉ 37% những người trên 60 tuổi nói rằng họ muốn giàu có. Ở Việt Nam, mô hình này giống như ở hầu hết các quốc gia được khảo sát, nhưng ở mức độ cao hơn nhiều: 80% người Việt Nam dưới 30 tuổi và 65% người Việt Nam trên 55 tuổi cho rằng điều quan trọng là họ trở nên hoặc trở nên giàu có. Ngược lại, ở Hàn Quốc, không có sự khác biệt: 57% người trẻ tuổi và 58% người lớn tuổi nói rằng điều quan trọng là họ phải trở nên giàu có. Cũng có một chút khác biệt ở Trung Quốc, với 51% những người dưới 30 tuổi và 46% những người trên 60 tuổi nói rằng điều quan trọng là họ phải giàu có (Hình 6).

HÌNH 6 Tầm quan trọng chủ quan của việc giàu có theo độ tuổi ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam (phần trăm)

Câu hỏi: ‘Đối với một số người, điều quan trọng là giàu có. Đối với cá nhân bạn, việc trở nên giàu có quan trọng như thế nào?’

Trả lời: ‘Rất quan trọng’/’Khá quan trọng’

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

Và những gì về sự khác biệt giữa các giới tính? Như chúng ta đã thấy, mong muốn trở nên giàu có thường phổ biến hơn ở nam giới so với nữ giới ở châu Âu và Hoa Kỳ. Điều tương tự cũng đúng ở Trung Quốc và Nhật Bản, nhưng không phải ở Hàn Quốc và Việt Nam. Hàn Quốc là quốc gia duy nhất – ngoài Tây Ban Nha – có tỷ lệ nam nữ cố gắng trở nên giàu có ngang nhau. Ở Việt Nam, các số liệu lại ngược lại: Ở đây, phụ nữ (80%) muốn trở nên giàu có nhiều hơn đáng kể so với nam giới (72%) (Hình 7).

HÌNH 7 Tầm quan trọng chủ quan của việc trở nên giàu có – phân tích 11 quốc gia theo giới tính (%)

Câu hỏi: ‘Đối với một số người, điều quan trọng là giàu có. Đối với cá nhân bạn, việc trở nên giàu có quan trọng như thế nào?’

Trả lời: ‘Rất quan trọng’/’Khá quan trọng’

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 11.085, 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-18-031911-01-02, J-19-01009-29, J-19-01009-47, J-20-091774-05 và J-21-041026-01

Một bức tranh khác biệt hơn xuất hiện khi Thang đo ghen tị xã hội cho từng quốc gia trong số 11 quốc gia được phân tích theo giới tính. Như các khảo sát trước đây của chúng tôi cho thấy, ở Đức, Ý và Pháp, phụ nữ hay ghen tị hơn nam giới. Ở Trung Quốc, phụ nữ cũng ghen tị hơn một chút (SEC 0,96) so với nam giới (0,88), trong khi ở Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Anh và Thụy Điển, bốn quốc gia phương Tây có Hệ số ghen tị xã hội thấp nhất, nam giới lại ghen tị nhiều hơn.

Ở Hàn Quốc, cả đàn ông và phụ nữ đều không đặc biệt ghen tị, nhưng ghen tị ở phụ nữ, với Hệ số ghen tị xã hội là 0,26, ít rõ rệt hơn so với nam giới (0,45). Tương tự, ở Nhật Bản, cả nam giới và nữ giới đều không đặc biệt ghen tị, nhưng ghen tị ở nữ giới, ở mức 0,20, thấp hơn một chút so với nam giới (0,31). Và ở Việt Nam, đố kỵ xã hội ở mức thấp như nhau đối với nam (0,48) và nữ (0,41) (Hình 8).

HÌNH 8 Hệ số ghen tị xã hội ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam – Phân tích theo giới tính

Lưu ý: Hệ số lớn hơn 1,0: những người ghen tị (cấp độ 2 và 3 trên Thang đo ghen tị xã hội) nhiều hơn những người không ghen tị (cấp độ 0 trên Thang đo ghen tị xã hội). Hệ số nhỏ hơn 1.0: số người không ghen tị nhiều hơn số người ghen tị

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

  1. AI XỨNG ĐÁNG GIÀU – VÀ AI KHÔNG

Nhiều cuộc khảo sát trước đây bao gồm những câu hỏi chung chung về thái độ của người trả lời đối với người giàu. Tuy nhiên, ý kiến ​​của mọi người về người giàu khác nhau đáng kể tùy thuộc vào cách một người trở nên giàu có. Ví dụ, ai đó đã xây dựng sự giàu có của họ với tư cách là một doanh nhân hay họ được thừa hưởng nó? Có phải ai đó đã trở nên giàu có nhờ một vận động viên ưu tú được trả lương cao, một người trúng xổ số hay một nhà đầu tư bất động sản? Để có cái nhìn sắc thái hơn về thái độ của những người được hỏi, câu hỏi sau đây đã được đặt ra ở cả bảy quốc gia: ‘Cá nhân bạn tin rằng nhóm người nào trong số những người sau đây xứng đáng được giàu có?’

Ở tất cả các quốc gia châu Âu được khảo sát và Hoa Kỳ, các doanh nhân và người tự kinh doanh được coi là xứng đáng nhất với sự giàu có của họ, tiếp theo là những người sáng tạo và nghệ sĩ (bao gồm cả diễn viên hoặc nhạc sĩ), vận động viên hàng đầu và người trúng xổ số. Ở hầu hết các quốc gia, các giám đốc ngân hàng cấp cao nằm trong số những nhóm có tài sản bị coi thường nhất, ngoại trừ ở Trung Quốc – nơi các chủ ngân hàng cấp cao rõ ràng được coi là những người xứng đáng nhất, tiếp theo là các doanh nhân.

Ở Hàn Quốc và Nhật Bản, thứ hạng ở nhiều khía cạnh giống như ở Châu Âu và Hoa Kỳ – với các doanh nhân đứng đầu và các chủ ngân hàng cấp cao ở cuối bảng. Điều đáng chú ý là những người được hỏi ở Nhật Bản ít có khả năng cảm thấy rằng những người thừa kế xứng đáng được giàu có hơn so với những người được hỏi ở bất kỳ quốc gia nào khác. Và, ở Việt Nam, một mô hình rất khác lại xuất hiện: mặc dù các doanh nhân ở Việt Nam được xếp hạng cao (ở vị trí thứ hai), nhưng những người được hỏi lại đánh giá cao một cách bất thường đối với các nhà đầu tư tài chính, đầu tư bất động sản và các nhà quản lý cấp cao. Mặt khác, thứ hạng thấp được trao cho những người tự kinh doanh rất có thể là do những người trả lời ở Việt Nam của chúng tôi có mối liên hệ rất khác với thuật ngữ ‘tư làm chủ’ so với những người trả lời ở Hoa Kỳ và Châu Âu, chẳng hạn (Bảng 4).

BẢNG 4. Ai xứng đáng được giàu có? Xếp hạng (và %) ở bốn quốc gia

Trung Quốc Hàn Quốc Nhật Bản Việt Nam
Nhân viên ngân hàng cao cấp 1 (81) 8 (13) 9 (8) 7 = (33)
Doanh nhân 2 (80) 1 (54) 1 (37) 2 (56)
Người thừa kế 3 (74) 5 (25) 10 (7) 7 = (33)
Vận động viên hàng đầu 4 (72) 2 (47) 2 (26) 6 (45)
Nhà đầu tư bất động sản 5 (58) 6 = (24) 6 (14) 3 (55)
Người sáng tạo, nghệ sĩ 6 (44) 4 = (32) 3 (22) 5 (46)
Quản lý cấp cao 7 (35) 7 (23) 7 (13) 4 (53)
Nhà đầu tư tài chính 8 (16) 4 = (32) 4 (17) 1 (62)
Tự làm chủ 9 (6) 3 (33) 5 (15) 9 (26)
Trúng xổ số 10 (5) 6 = (24) 8 (12) 8 (27)

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

  1. TRUNG THỰC: CẢM NHẬN CHUNG VÀ RIÊNG CỦA NGƯỜI GIÀU

Sau khi hỏi một mẫu toàn bộ dân số ở mỗi quốc gia này xem họ nghĩ gì về người giàu, chúng tôi đặt một câu hỏi tiếp theo cho những người được hỏi biết cá nhân ít nhất một người giàu.

Ở Hàn Quốc, chúng tôi định nghĩa ‘giàu’ là người có tài sản ròng trị giá hơn 1 tỷ KRW, ở Nhật Bản là người có tài sản ròng trị giá hơn 200 triệu JPY, ở Trung Quốc là người có tài sản ròng trị giá 2 triệu RMB và ở Việt Nam là người có tài sản ròng trị giá trên 10 tỷ đồng, luôn không bao gồm giá trị bất động sản của chính người đó. Ở châu Âu và Hoa Kỳ, chúng tôi định nghĩa ‘giàu’ là người có tài sản ròng trị giá hơn 1 triệu euro/USD, và ở Thụy Điển, chúng tôi đặt tiêu chuẩn ở mức 10 triệu curon.

Ở Nhật Bản, chỉ 17% số người được hỏi nói rằng họ có quen biết cá nhân với một người giàu có, ở Trung Quốc là 37% biết ít nhất một người giàu và ở Hàn Quốc, con số này là 43%. Ngược lại, ở Việt Nam, tỷ lệ này cao bất thường ở mức 69%. 2

Ở bốn quốc gia châu Âu nơi chúng tôi hỏi câu hỏi bổ sung này, đánh giá chung của dân số về đặc điểm tính cách của người giàu kém tích cực hơn nhiều so với đánh giá về người giàu mà họ biết. Điều này cũng đúng với Nhật Bản, Việt Nam và Hàn Quốc – mặc dù không phải với tất cả các đặc điểm tính cách.

Mặt khác, ở Trung Quốc, kết quả lại khác nhau: Những người được hỏi biết ít nhất một người giàu có nhiều khả năng nói rằng người giàu mà họ biết rõ nhất là người trung thực và ít có khả năng nói rằng họ tham lam. Đồng thời, và mâu thuẫn với điều này, số người Trung Quốc biết một người giàu nói rằng người giàu thông minh ít hơn đáng kể so với toàn bộ dân số.

Từ quan điểm đạo đức, ‘trung thực’ là một đặc điểm nhân cách đặc biệt quan trọng. Qua nghiên cứu tâm lý, chúng tôi biết rằng những giá trị ‘đạo đức’ như vậy quan trọng hơn nhiều trong việc hình thành đánh giá tổng thể về một người hoặc một nhóm xã hội so với cái gọi là giá trị ‘năng lực’ (chẳng hạn như cần cù hoặc thông minh).

Trong tổng số 14 đặc điểm tính cách, ‘trung thực’ là đặc điểm ít được lựa chọn nhất ở hầu hết các quốc gia mà chúng tôi khảo sát. Tỷ lệ phần trăm dao động từ 1% ở Ý và Tây Ban Nha đến 8% ở Hoa Kỳ. Ở Nhật Bản, chỉ 5% số người được hỏi cho rằng sự trung thực là do người giàu, và ở Hàn Quốc, đó là điều hiếm thứ hai với tỷ lệ 6% (chỉ có ‘hời hợt’ được ít người trả lời lựa chọn hơn ở mức 3%). Ở Việt Nam, 14% và ở Trung Quốc, 24% số người được hỏi mô tả người giàu là trung thực, cao hơn ở các quốc gia khác, nhưng lại chỉ xếp thứ 11 và 12, tương ứng, trong số 14 đặc điểm có thể.

Tuy nhiên, điều đáng chú ý là ở những quốc gia mà chúng tôi cũng đặt câu hỏi bổ sung cho nhóm nhỏ những người được hỏi mà cá nhân họ biết ít nhất một người giàu, chúng tôi thấy có sự khác biệt đáng kể trong các quy kết về đặc điểm ‘trung thực’. Những người được hỏi thực sự biết một hoặc nhiều người giàu có nhiều khả năng mô tả người giàu mà họ biết rõ nhất là trung thực hơn là các thành viên của toàn bộ dân số (Hình 9).

HÌNH 9 Người giàu có trung thực không? Phân tích tám quốc gia (phần trăm)

Câu hỏi: ‘Điều nào, nếu có, sau đây có nhiều khả năng áp dụng nhất cho người giàu?’

Câu hỏi bổ sung cho những người trả lời cá nhân biết ít nhất một người giàu: ‘Điều nào, nếu có, sau đây áp dụng cho người giàu mà bạn biết rõ nhất?’

Nguồn: Allensbacher khảo sát 11.085 và 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-18-031911-01-02, J-19-01009-29, J-19-01009-47, J-20-091774-05 và J-21-041026-01

Điều này khẳng định điều mà các nhà khoa học trong lĩnh vực nghiên cứu định kiến ​​đã xác định chắc chắn về mối quan hệ với các nhóm thiểu số khác trong xã hội: những người có kinh nghiệm cá nhân, gần gũi với một nhóm thiểu số có nhiều khả năng có thái độ tích cực đối với nhóm đó hơn những người có nhận thức được định hình bởi nhóm thiểu số đó. phương tiện truyền thông một mình. Như cuộc khảo sát của chúng tôi cho thấy, điều tương tự cũng áp dụng cho quan điểm của mọi người về người giàu với tư cách là thiểu số.

  1. THUẾ

Hầu hết những người được hỏi của chúng tôi đồng ý rằng người giàu nên trả mức thuế cao hơn người nghèo hoặc người có thu nhập trung bình; và đó là cách hệ thống thuế ở các quốc gia mà chúng tôi khảo sát đều được thiết kế để hoạt động. Nhưng các ý kiến ​​khác nhau về câu hỏi nên đánh thuế cao như thế nào. Ở tất cả các quốc gia châu Âu được khảo sát (ngoại trừ Thụy Điển) và ở Hoa Kỳ, số người được hỏi cho rằng người giàu không chỉ phải trả thuế cao mà còn phải nộp thuế rất cao nhiều hơn số người phản đối việc đánh thuế rất cao đối với người giàu. giàu có. Trong một số trường hợp, sự khác biệt là rất lớn. Chẳng hạn ở Pháp, 53% người được hỏi cho rằng người giàu nên đóng thuế rất cao và chỉ 19% cho rằng họ nên đóng thuế cao nhưng không rất cao.

Việt Nam là một ví dụ nổi bật về sự khác biệt giữa một bên là các nước châu Á, nơi mà sự giàu có được đánh giá cao, và bên kia là các nước châu Âu, nơi mà sự giàu có bị coi thường. Chẳng hạn, phát hiện của chúng tôi về điểm này ở Việt Nam hoàn toàn ngược lại với kết quả ở Pháp: 63% người Việt Nam cho rằng nên đánh thuế cao nhưng không quá cao đối với người giàu, trong khi chỉ có 21% ủng hộ đánh thuế rất cao đối với người giàu có.

Ở Nhật Bản cũng vậy, số người được hỏi đồng ý rằng thuế không nên quá cao vượt trội so với những người ủng hộ mức thuế rất cao, nhưng chỉ với một biên độ rất hẹp: 32% số người được hỏi ở Nhật Bản phản đối mức thuế rất cao đối với người giàu, so với 30% ủng hộ thuế rất cao.  Mặt khác, ở Hàn Quốc và Trung Quốc, xu hướng của câu hỏi này cũng giống như ở nhiều nước phương Tây: ở Hàn Quốc 45% và ở Trung Quốc 58% ủng hộ thuế rất cao và chỉ 30%. (Hàn Quốc) và 37% (Trung Quốc) cho rằng người giàu không nên bị đánh thuế quá mức (Hình 10).

HÌNH 10 Thuế rất cao đối với người giàu? Phân tích phản hồi từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam (phần trăm)

Câu hỏi: ‘Cuối cùng, bạn đồng ý với câu nào nhất trong các câu sau đây, nếu có?’

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

  1. LƯƠNG QUẢN LÝ

Nếu tôi được hỏi về những đặc điểm và đặc điểm đóng góp nhiều nhất vào thu nhập cao và sự giàu có của người giàu, cá nhân tôi sẽ đánh giá các yếu tố như ‘sáng tạo’ (đối với doanh nhân) hoặc ‘kỹ năng khan hiếm’ (đối với các nhà quản lý cấp cao, cấp cao nhất); vận động viên, nghệ sĩ… vượt xa ‘sự cần cù’.

Hầu hết mọi người hình thành hình ảnh của họ về những người giàu có từ những miêu tả trên phương tiện truyền thông hoặc bằng cách phóng chiếu trải nghiệm của chính họ lên họ. Do đó, đối với người lao động bình thường, kiếm được nhiều tiền hơn là vấn đề cần cù hơn, chẳng hạn như làm thêm giờ. Kinh nghiệm cá nhân dạy cho nhân viên rằng số tiền mà một người kiếm được phụ thuộc vào thời gian và mức độ chăm chỉ của họ. Do đó, những người có thái độ tích cực đối với người giàu có thể cho rằng người giàu đặc biệt cần cù, trong khi số người chỉ trích người giàu nhiều hơn – như kết quả khảo sát của chúng tôi chứng minh – lại coi người giàu là đặc biệt cần cù thì ít hơn đáng kể.

Thái độ của những người được hỏi đối với người giàu bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những giả định của họ về những yếu tố chính quyết định thu nhập của một cá nhân. Hiệu ứng này có thể được nhìn thấy trong ý kiến ​​của những người được hỏi về tiền lương của các nhà quản lý. Mức lương của một nhà quản lý không được quyết định, như nhiều người cho rằng, bởi số giờ anh ta hoặc cô ta làm việc, mà bởi cung và cầu trên thị trường dành cho những tài năng quản lý cấp cao nhất. Tuy nhiên, hầu hết mọi người ở châu Âu và Hoa Kỳ không nhận ra mối liên hệ này. Ở tất cả 11 quốc gia, những người tham gia khảo sát được hỏi liệu họ có đồng ý với những nhận định sau đây về những người quản lý kiếm được gấp 100 lần nhân viên của họ hay không:

Tuyên bố A ngụ ý rằng tiền lương cuối cùng được xác định, hoặc nên được xác định, bởi mức độ làm việc chăm chỉ và lâu dài của một người nào đó, và mức lương rất cao – nghĩa là, những mức lương không tỷ lệ thuận với nỗ lực làm thêm – là ‘không công bằng’. Mặt khác, Phát biểu B giả định rằng cung và cầu trên thị trường đối với các nhà quản lý cấp cao nhất là yếu tố chính quyết định mức lương của nhà quản lý (Hình 11).

HÌNH 11 Thái độ đối với mức lương quản lý cao ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam (%)

Câu hỏi: ‘Đây là một số phát biểu về sự khác biệt trong thu nhập được tìm thấy giữa những người quản lý kiếm được gấp 100 lần so với nhân viên của họ. Bạn sẽ đồng ý với câu nào trong số những câu này?’

Nguồn: Khảo sát của Viện Allensbach 8.271; Khảo sát Ipsos MORI J-21-041026-01

Như chúng ta đã thấy, phần lớn những người được hỏi ở tất cả các nước châu Âu và Hoa Kỳ đã đồng ý với Tuyên bố A, ngụ ý rằng làm việc chăm chỉ hơn và lâu hơn sẽ đóng vai trò quyết định trong việc xác định mức lương của một cá nhân.

Tình hình lại khác ở Nhật Bản, nơi chỉ có 13% số người được hỏi nói rằng việc các nhà quản lý kiếm được gấp 100 lần so với nhân viên của họ là không phù hợp vì họ không làm việc lâu hơn và chăm chỉ hơn (để so sánh: 63% ở Đức, 46% ở Pháp, 39% ở Hoa Kỳ). Ngược lại, 18% đồng ý với tuyên bố rằng các công ty chỉ có thể tuyển dụng và giữ chân những nhà quản lý giỏi nhất nếu họ trả mức lương như vậy.

Ở Hàn Quốc, tình hình cũng tương tự như Nhật Bản: chỉ 13% số người được hỏi cho rằng việc người quản lý kiếm được gấp 100 lần nhân viên của họ là không phù hợp vì họ không làm việc lâu hơn và chăm chỉ hơn. Ngược lại, có tới 29% đồng ý với tuyên bố rằng các công ty chỉ có thể tuyển dụng và giữ chân những nhà quản lý giỏi nhất nếu họ trả mức lương như vậy.

Ở Việt Nam, sự khác biệt thể hiện rõ nhất ở câu hỏi này: chỉ 14% người Việt Nam cho rằng quản lý kiếm được gấp 100 lần nhân viên của mình là vô lý khi họ không làm việc lâu hơn và chăm chỉ hơn. Ngược lại, 45% người Việt Nam được hỏi đồng ý với nhận định rằng các công ty chỉ có thể tuyển dụng và giữ chân những nhà quản lý giỏi nhất nếu họ trả mức lương như vậy.

Một lần nữa, cũng như rất nhiều câu hỏi khác của cuộc khảo sát, câu trả lời của người Trung Quốc cũng tương tự như câu trả lời của người châu Âu và người Mỹ: 57% người Trung Quốc cho rằng việc các nhà quản lý kiếm được gấp 100 lần nhân viên của họ là vô lý, họ không làm việc lâu hơn và chăm chỉ hơn. Ngược lại, chỉ 33% số người Trung Quốc được hỏi đồng ý với nhận định rằng các công ty chỉ có thể tuyển dụng và giữ chân những nhà quản lý giỏi nhất nếu họ trả mức lương như vậy.

  1. KẾT LUẬN

Mong muốn trở nên giàu có ở các nước châu Á rõ rệt hơn nhiều so với ở châu Âu và Hoa Kỳ. Tại bốn quốc gia châu Á được khảo sát, trung bình 58% số người được hỏi bày tỏ sự đồng tình về điểm này, so với 28% ở châu Âu và Hoa Kỳ. Đây là sự khác biệt nổi bật nhất giữa một bên là Châu Á với bên kia là Châu Âu và Hoa Kỳ. Có nhiều yếu tố tác động ở đây: sự giàu có theo truyền thống đóng vai trò quan trọng hơn và có nhiều mối liên hệ tích cực hơn ở các nước châu Á so với nhiều nước châu Âu. Ngoài ra, các quốc gia như Trung Quốc và Việt Nam đương nhiên có nhu cầu lớn hơn để bắt kịp và người dân ở đó ‘đói hơn’ so với những người châu Âu đã quá no. Khát vọng làm giàu là một động lực quan trọng thúc đẩy tiến bộ kinh tế ở các quốc gia này.

Các khảo sát của chúng tôi xác nhận rằng sự ghen tị xã hội ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam thấp hơn so với trường hợp ở Châu Âu và Hoa Kỳ. Ngược lại, ở Trung Quốc, sự ghen tị xã hội rõ rệt hơn đáng kể so với ba quốc gia châu Á khác – và gần ngang bằng với Đức.

Dựa trên tất cả dữ liệu chúng tôi thu thập được, có thể kết luận chắc chắn rằng người dân Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam có thái độ tích cực hơn nhiều đối với người giàu so với người dân ở lục địa Châu Âu và Trung Quốc. Chỉ số cảm tính của người giàu, đo lường thái độ tổng thể đối với người giàu, trung bình là 0,9 ở Châu Âu và Hoa Kỳ, so với chỉ 0,5 ở Hàn Quốc, 0,4 ở Nhật Bản và 0,4 ở Việt Nam. Mặt khác, ở Trung Quốc, nó phù hợp với mức trung bình của các nước phương Tây là 0,9.

Gần như cùng thời điểm chúng tôi thực hiện khảo sát tại Việt Nam (tháng 7 và tháng 8 năm 2021), một nghiên cứu khác về thái độ đối với người giàu tại Việt Nam cũng được thực hiện bởi Hoàng Nam-Vũ và các đồng nghiệp tại Đại học Ngoại thương (FTU). Nghiên cứu của họ đã khảo sát 1.207 người Việt Nam và mặc dù sử dụng các câu hỏi khác nhau, nhưng nghiên cứu của họ cũng cho kết quả tương tự như nghiên cứu của tôi:

Chẳng hạn, trong cuộc khảo sát của Nam-Vu, chỉ có 5% số người được hỏi đồng ý với nhận định ‘Tôi rất ít thiện cảm với người giàu’, trong khi 64% không đồng ý. Chỉ 7% đồng ý với nhận định ‘Người giàu chỉ làm lợi cho mình chứ không phải cho người khác’, trong khi 72% không đồng ý. Và chỉ có 3% cho rằng ‘Người giàu không làm gì cho đất nước’, trong khi 89% không đồng ý (Vũ Hoàng-Nam và cộng sự, sắp xuất bản).

Nghiên cứu này khẳng định điều mà nghiên cứu của tôi đã chỉ ra không chỉ cho Việt Nam mà còn cho cả Hàn Quốc và Nhật Bản: sự ghen tị xã hội ít rõ rệt hơn ở các nước châu Á này so với ở châu Âu và Hoa Kỳ. Không giống như ở một số nước châu Âu, người giàu được coi là hình mẫu chứ không phải vật tế thần.

GHI CHÚ

Tác giả: Ambrose Evans-Pritchard

Đăng trên The Telegraph London (AFR đã dẫn) ngày 04/05/2023 Dịch tk telegram: @MNewsstand

Vụ sụp đổ kép của ngành bất động sản thương mại và thị trường trái phiếu Hoa Kỳ giờ đã chạm tới 9.000 tỷ USD những khoản tiền gửi không có bảo hiểm trong hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ. Những khoản tiền gửi như thế có thể bốc hơi chỉ trong một buổi chiều trong thời đại công nghệ ngày nay.

Các vụ sụp đổ ngân hàng lớn thứ hai và thứ ba trong lịch sử nước Hoa Kỳ đã diễn ra nối tiếp nhau một cách nhanh chóng. Bộ Tài chính cùng Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED) muốn chúng ta tin rằng những sự kiện đó mang tính “đặc trưng”. Đó là một kiểu né tránh sự thật rất nguy hiểm.

Gần một nửa trong tổng số 4.800 ngân hàng của Hoa Kỳ đã và đang mất đi những khoản dự trữ đệm vốn của họ, và giờ đang hoạt động với mức vốn âm. Họ có thể không phải báo cáo tất cả những khoản lỗ của mình với thị trường theo luật kế toán Hoa Kỳ, nhưng điều đó không làm cho họ bỗng nhiên thoát vỡ nợ được. Ai đó rồi cũng sẽ phải chịu những khoản lỗ ấy.

“Thật đáng sợ. Hàng ngàn ngân hàng đang sắp chết đuối”, theo Giáo sư Amit Seru, một chuyên gia ngân hàng tại Đại học Stanford. “Chúng ta hãy ngừng giả vờ rằng điều này chỉ liên quan đến Silicon Valley Bank và First Republic. Một phần lớn hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ đang có khả năng vỡ nợ”.

Sự sụp đổ của SVB chỉ là khởi đầu cho một cuộc khủng hoảng hàng loạt.

Cú sốc toàn diện từ chính sách thắt chặt tiền tệ của FED vẫn chưa xảy ra. Một khoản nợ khổng lồ đang đứng bên bờ vực tái cơ cấu trong vòng 6 quý tới. Chỉ đến lúc đó chúng ta mới có thể biết được liệu hệ thống tài chính Hoa Kỳ có thể giảm bớt mức nợ quá cao do chính sách kích thích tiền tệ hết sức quyết liệt trong thời kỳ đại dịch một cách an toàn hay không.

Một báo cáo từ Viện Hoover do Giáo sư Seru cùng đồng tác giả là một nhóm các chuyên gia ngân hàng đã tính toán rằng hơn 2.315 ngân hàng Hoa Kỳ hiện đang sở hữu đống tài sản có giá trị thấp hơn nợ của họ. Giá trị thị trường của các danh mục cho vay của những ngân hàng này hiện thấp hơn 2.000 tỷ USD so với giá trị ghi trên sổ sách kế toán của họ.

Những ngân hàng cho vay bao gồm cả những gã khổng lồ. Một trong số 10 ngân hàng dễ bị tổn thương nhất là một thực thể có hệ thống kinh doanh toàn cầu và nắm trong tay số tài sản trị giá hơn 1.000 tỷ USD. 3 ngân hàng khác trong số đó cũng là những ngân hàng lớn. Ông Seru nói: “Đây không chỉ là vấn đề đối với những ngân hàng có giá trị dưới 250 tỷ USD, vốn không phải vượt qua những đợt kiểm tra khả năng hoạt động bền vững theo luật”.

Bộ Tài chính và Công ty Bảo hiểm Ký thác Liên bang Hoa Kỳ (FDIC) cho rằng họ đã kiểm soát được cuộc khủng hoảng bằng cách giải cứu những khách hàng gửi tiền không có bảo hiểm của Silicon Valley Bank và Signature bank bằng một cơ chế gọi là “ngoại lệ ngăn ngừa rủi ro hệ thống” sau khi những ngân hàng cho vay này sụp đổ trong tháng Ba vừa qua.

Nhà Trắng tỏ ra ngần ngại trước đề xuất yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ đứng ra bảo đảm toàn diện tất cả các khoản tiền gửi ngân hàng, bởi điều đó trông sẽ giống như là trợ cấp xã hội cho người giàu vậy. Bên cạnh đó, FDIC chỉ còn nắm khoảng 127 tỷ USD tài sản (và rất sớm thôi sẽ còn ít hơn thế) và có thể cuối cùng chính bản thân họ cũng sẽ cần phải được giải cứu.

Chính quyền Hoa Kỳ muốn để vấn đề này trong tình trạng mơ hồ hơn là trả lời rõ ràng, với hy vọng tất cả khách gửi tiền ngân hàng sẽ phân biệt được một lời bảo đảm ngầm. Canh bạc đó đã thua to. Khách gửi tiền đã tháo chạy khỏi First Republic Bank với tốc độ nhanh khủng khiếp hồi tuần trước, mặc cho một đợt bơm vốn khẩn cấp trị giá 30 tỷ USD trước đó từ một nhóm các ngân hàng lớn.

Những “hiệp sĩ” giải cứu đang dò xét khả năng mua lại First Republic đã khựng lại sau khi họ kiểm tra sổ sách của ngân hàng này và phát hiện ra quy mô thiệt hại từ mảng đầu tư bất động sản. FDIC đã phải quốc hữu hóa ngân hàng này, xóa sổ toàn bộ số tiền của cả cổ đông lẫn nhà đầu tư trái phiếu của họ. Chính phủ Hoa Kỳ đã mất 13 tỷ USD tiền trợ cấp trực tiếp cùng với 50 tỷ USD tiền cho vay để thu hút JP Morgan mua lại hết những gì còn sót lại.

“Sẽ không có đối tác nào chịu mua lại First Republic mà không có trợ cấp từ nhà nước”, theo Krishna Guha từ Evercore ISI. Ông này cảnh báo hàng trăm ngân hàng quy mô nhỏ và trung bình sẽ chuẩn bị tinh thần đối phó và thắt chặt hoạt động cho vay để tránh mắc phải số phận tương tự. Đây là cách mà một cuộc khủng hoảng tín dụng bắt đầu.

Cổ phiếu của PacWest, ngân hàng kế tiếp trong danh sách có nguy cơ vỡ nợ, đã mất 11% giá trị trong phiên giao dịch cuối ngày 1/5. Đó sẽ là hồi chuông cảnh báo cho những gì sắp diễn ra tiếp theo.

Chính quyền Hoa Kỳ có thể kiểm soát được cuộc khủng hoảng thanh khoản ngay trước mắt bằng cách tạm thời đứng ra bảo đảm tất cả các khoản tiền gửi. Nhưng điều đó không giải quyết được cuộc khủng hoảng khả năng thanh toán nợ có quy mô lớn hơn nhiều.

Giai đoạn cự tuyệt

Bộ Tài chính Hoa Kỳ và FDIC giờ vẫn đang ở trong giai đoạn chối bỏ sự thật. Họ đổ lỗi cho những vụ sụp đổ lên việc cho vay bừa bãi, quản lý yếu kém, và phụ thuộc quá mức vào những khách hàng gửi tiền có khả năng rời đi bất cứ lúc nào của một nhóm nhỏ các ngân hàng.

Điều này nghe rất quen. Giáo sư Seru cho biết: “Họ đã nói y hệt như thế khi Bear Stearns sụp đổ năm 2008. Mọi thứ rồi sẽ ổn thôi”.

First Republic cấp vốn vay cho các start-up công nghệ, nhưng họ chủ yếu vướng vào rắc rối trong mảng bất động sản thương mại. Họ sẽ không phải là ngân hàng cuối cùng rơi vào tình cảnh ấy. Các bất động sản tòa nhà văn phòng và khu công nghiệp đang ở giai đoạn đầu của một đợt suy thoái sâu. “Giai đoạn mà chúng ta đang ở trong hiện nay gần như là một cơn bão hoàn hảo”, theo Jeff Fine, chuyên gia bất động sản tại Goldman Sachs.

Ông nói: “Lãi suất đã tăng 4 đến 5% chỉ trong một năm, và thị trường vốn vay gần như đã đóng cửa hoàn toàn. Chúng tôi ước tính có khoảng 4.000-5.000 tỷ USD nợ trong mảng bất động sản thương mại, trong số đó khoảng 1.000 tỷ USD sắp đáo hạn trong vòng 12 đến 18 tháng tới”.

Các gói cho vay vốn bất động sản thương mại (CMBS) thường có thời gian đáo hạn ngắn và phải được tái cấp vốn cứ 2 đến 3 năm một lần. Hoạt động vay nợ đã bùng nổ trong thời kỳ đại dịch khi FED rót tràn ngập thanh khoản vào hệ thống tài chính. Khoản nợ nó sẽ đến hạn phải trả vào cuối năm 2023 và 2024.

Liệu những thiệt hại trên có tồi tệ như cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn (subprime) trước đây hay không? Có thể là không. Capital Economics cho biết bong bóng đầu tư trong mảng bất động sản nhà ở ở Hoa Kỳ đã leo lên đến đỉnh 6.5% GDP hồi năm 2007. Con số đem ra so sánh trong mảng bất động sản thương mại hiện nay là 2.6%.

Tuy nhiên mối đe dọa cũng không hề nhỏ chút nào. Giá bất động sản thương mại ở Hoa Kỳ trước mắt đã giảm 4 đến 5%. Capital Economics dự báo mức sụt giảm sâu nhất từ đỉnh sẽ là 22%. Điều này sẽ còn gây ra thêm nhiều thiệt hại lớn hơn nữa lên danh mụch cho vay của các ngân hàng địa phương, vốn chiếm tới 70% hoạt động cấp vốn vay trong ngành bất động sản thương mại.

Theo Nhà kinh tế trưởng của Capital Economics, Neil Shearing: “Trong tình huống tồi tệ nhất, nó có thể tạo ra một ‘vòng luẩn quẩn chết chóc’ có khả năng đẩy nhanh tốc độ của một suy thoái bất động sản thực thụ rồi lây lan ngược sang hệ thống ngân hàng”.

Những khó khăn của Silicon Valley Bank lại khác vậy. Tội lỗi của họ đó là đầu tư quá nhiều tiền gửi của khách hàng vào cái đáng ra là loại tài sản tài chính an toàn nhất trên thế giới: trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ. Họ đã được khuyến khích làm vậy theo những quy định phân bổ rủi ro (risk-weighting) từ các cơ quan quản lý Hiệp ước Ngân hàng Quốc tế Basel.

Một vài trong số những khoản đầu tư nợ này đã mất tới 20% giá trị đối với các trái phiếu kỳ hạn lâu dài – một kiểu thua lỗ theo lý thuyết chỉ trên giấy tờ cho đến lúc biến thành thật khi người ta phải bán chúng đi để đáp ứng khách hàng rút tiền gửi ồ ạt.

Chính quyền Hoa Kỳ nói ngân hàng này đáng ra nên đầu tư phòng hộ (hedging) khoản nợ trái phiếu chính phủ này bằng các loại chứng khoán lãi suất phái sinh (derivatives). Tuy nhiên như báo cáo Hoover đã ghi rõ, đầu tư phòng hộ chỉ đơn giản là chuyển thiệt hại từ ngân hàng này sang ngân hàng khác. Phía đối tác đứng ra bảo đảm hợp đồng phòng hộ thay vào đó sẽ đứng ra chịu lỗ.

Hành vi thất thường

Nguyên nhân gốc rễ của cuộc khủng hoảng trái phiếu và ngân hàng này nằm ở hành vi thất thường và những chính sách khích lệ có tính nuông chiều quá mức từ FED và Bộ Tài chính Hoa Kỳ trong suốt nhiều năm, mà đỉnh điểm là sự “quay xe” quyết liệt từ chính sách buông lỏng tiền tệ sang chính sách thắt chặt tiền tệ giờ đây đang diễn ra.

Ban đầu họ tạo ra “rủi ro lãi xuất” với quy mô khổng lồ: giờ thì họ đang cho nổ quả bom hẹn giờ trễ do chính họ tạo ra. Chris Whalen từ Institutional Risk Analyst nói chúng ta nên thận trọng trước luận điệu sai lầm đổ tất cả tội lỗi lên những ngân hàng hư hỏng: “Sự can thiệp quá mức vào thị trường mở của FED từ năm 2019 đến năm 2022 là lý do chính yếu cho sự sụp đổ của First Republic cũng như Silicon Valley Bank”.

Ông Whalen nói các ngân hàng và nhà đầu tư trái phiếu Hoa Kỳ (tức các quỹ hưu trí và công ty bảo hiểm) đang “nắm giữ” 5.000 tỷ USD thua lỗ “ẩn” trên lý thuyết do giai đoạn bùng nổ cuối cùng của cuộc thử nghiệm nới lỏng định lượng (QE) của FED để lại: “Khi mà các ngân hàng Hoa Kỳ chỉ nắm khoảng 2.000 tỷ USD vốn ròng, thực sự chúng ta đang có vấn đề”.

Ông này dự đoán khủng hoảng ngân hàng sẽ tiếp tục lan rộng từ những ngân hàng nhỏ ban đầu cho tới những ngân hàng quy mô lớn hơn cho đến khi nào FED dừng lại và giảm lãi suất xuống 1%. FED không hề có ý định dừng lại. Họ có kế hoạch tăng lãi suất cao hơn nữa. Họ tiếp tục bóp nghẹt nguồn cung tiền mặt của nước Hoa Kỳ với tốc độ kỷ lục với 95 tỷ USD thu hẹp định lượng (QT) mỗi tháng.

Sự thật kinh hoàng đó là ngân hàng trung ương của một cường quốc thế giới đã khiến mọi việc trở nên hỗn loạn tới mức họ chỉ còn cách lựa chọn giữa hai liều thuốc độc: hoặc là chào thua trước lạm phát; hoặc là để khủng hoảng ngân hàng leo lên đến mức độ hệ thống. Và họ đã chọn khủng hoảng ngân hàng.

Công ty được thành lập tại nước ngoài, đồng tiền mã hóa khi phát hành được neo vào những dự án có triển vọng, hồ sơ của những nhà sáng lập dự án rất đẹp và uy tín – Đó chính là cái bẫy đa cấp tinh vi rất khó nhận ra với những người đầu tư tiền ảo.

Hiện tại hình thức kinh doanh đa cấp vẫn hợp pháp tại Việt Nam. Nhưng gần đây ngoài các sản phẩm dịch vụ thật, xuất hiện một hình thức kinh doanh đa cấp mới là kêu gọi đầu tư tiền ảo theo mô hình đa cấp. Có vô số biến tướng của hình thức kinh doanh đa cấp này nhưng một trong những loại hình tinh vi nhất là đa cấp tiền ảo bằng tiền ảo. Qua đó, những nhà đầu tư tiền ảo được trả lợi nhuận bằng chính đồng tiền ảo mà mình đầu tư vào. Chỉ đến khi dự án sập hay đồng tiền ảo hạ giá trị đến gần bằng 0 thì nhà đầu tư mới nhận ra mình bị lừa.

Bẫy đa cấp tiền ảo bắt đầu từ một công ty quốc tế?

Một nhà đầu tư có kinh nghiệm luôn tìm hiểu khoản tiền của mình sẽ đi về đâu, được sử dụng như thế nào và khả năng sinh lời là bao nhiêu? Nhưng rất khó để nhận ra một dự án “ma” khi từ khởi đầu cho đến lúc kết thúc dự án này luôn “có vẻ” minh bạch và có tiềm năng lớn. Nhất là khi đồng tiền ảo của dự án (thường là tiền mã hóa) được phát hành tại một công ty ở nước ngoài, có vốn pháp định lớn, được neo vào những dự án có tiềm năng thương mại và hồ sơ cá nhân của những người đứng đầu dự án rất đẹp. Nhưng để làm những điều này thật ra rất đơn giản.

Có vô số biến tướng của hình thức kinh doanh đa cấp này nhưng một trong những loại hình tinh vi nhất là đa cấp tiền ảo bằng tiền ảo.

Một số công ty phát hành tiền mã hóa luôn chọn những đất nước có hành lang pháp lý tương đối cởi mở và cho phép hoạt động kinh doanh tiền ảo để thành lập công ty. Ví dụ như có đến 9/10 các công ty phát hành tiền mã hóa ở Việt Nam (có tư cách pháp nhân tại nước ngoài) được thành lập tại Belize. Đây là một quốc gia Trung Mỹ, nơi có thể thành lập công ty offshore (ngoại quốc) miễn thuế. Công ty đầu tư đặt tại nước này sẽ rất dễ dàng trong việc làm thủ tục, đăng kí. Chỉ cần một vị cổ đông đứng ra đăng kí là được, không có sự hạn chế về quốc tịch, cá nhân hoặc pháp nhân đều có thể đảm nhiệm ban quản trị của công ty, cổ đông của công ty mà không cần phải có sự ủy nhiệm của ban thư kí công ty.

Trên trang offshorecompanycorp.com có dịch vụ thành lập công ty tại Belize với giá chỉ từ 709 USD với phí duy trì công ty hàng năm vào khoảng 1.200 USD. Vốn pháp định của công ty thành lập tại đây thường được khai thấp nhằm giữ cho mức phí hàng năm ở mức tối thiểu. Đây là một khởi đầu an toàn, đáng tin cậy. Vậy là, chúng ta đã có một công ty phát hành tiền mã hóa quốc tế với chi phí rất rẻ. Tạm gọi công ty này là A. Vậy, giai đoạn tiếp theo A sẽ làm gì?

Tạo đồng tiền mã hóa, xây dựng sách trắng, hồ sơ cá nhân của lãnh đạo dự án?

Việc kinh doanh tiền ảo, lừa đảo đa cấp qua ảo (tiền mã hóa) được coi là lĩnh vực công nghệ cao. Nhưng thật sự thì việc tạo ra một đồng tiền như vậy không hề khó khăn. Với mã nguồn mở, dân công nghệ có thể chỉ mất một vài giờ đã tạo ra được một hợp đồng thông minh với một đồng tiền mã hóa mới (A token) do mình tự đặt tên với số lượng phát hành được định trước (ví dụ khoảng 21 triệu token giống như số lượng đồng Bitcoin được phát hành). Công ty A chúng ta vừa giả định ở trên có thể tạo ra một đồng tiền mã hóa theo công nghệ ERC-20 với đầy đủ tính năng của một đồng tiền ảo như: khả năng đào, đốt, có mã nguồn được xác thực… với mức giá chỉ khoảng 2.000 USD. Rất nhiều website hiện cung cấp dịch vụ này như Vittominacori hay Tokenmaker… Tiếp theo đó, công ty sẽ phải tạo ra một chương trình ví để người dùng có thể lưu trữ và giao dịch loại tiền này.

Mới đây, giới công nghệ đã có thể tạo ra một đồng tiền mã hóa mới chỉ trong 5 phút.

Song song với việc tạo ra đồng tiền ảo của riêng mình, công ty A sẽ phải trình bày về mục đích phát hành ra đồng tiền mã hóa A token. Và mục đích này sẽ được công ty A trình bày trong sách trắng (whitepaper) của công ty. Trong sách trắng, thường A sẽ nói về những dự án mà mình được thực hiện, hệ sinh thái mà mình sẽ tạo ra để đồng tiền được phát hành có thể tiêu thụ, có thể “đốt”, có tiềm năng về thương mại, thu hút người dùng. Việc vẽ ra các dự án không hề khó, như đồng tiền mã hóa Pi thời gian gần đây từng nói rằng Pi sẽ được sử dụng để mua các sản phẩm dịch vụ thật chứ không chỉ tồn tại trong thế giới ảo. Tại sao cần phải nói về dự án và phương thức đồng tiền sẽ được tiêu thụ?

Một đồng tiền chỉ có giá trị khi nó có thể trao đổi được. Đó chính là lý do mà các đồng tiền mã hóa luôn phải được những người sáng lập nó neo vào một dự án có tiềm năng. Ví dụ ở khoảng thời điểm 2 năm trước đây, các đồng tiền mã hóa thường neo vào các dự án game bài, nơi những người chơi cờ bạc dễ dàng đốt những đồng tiền này trong trò chơi, họ có thể mua tiền ảo và chơi trong trò chơi rồi lại đổi ra tiền thật (như Philippines có hành lang pháp lý chấp thuận vấn đề này). Như vậy, đồng tiền mã hóa sẽ có khả năng giao dịch nhờ đó tạo ra giá trị nội tại của chính mình. Ở thời điểm hiện tại, khi xu hướng tài chính phi tập trung DeFi nổi lên trong thế giới tiền mã hóa, các đồng tiền này thường được neo vào một dự án tài chính nào đó như cho vay ngang hàng, thế chấp tiền ảo, bảo hiểm tiền ảo… Nhưng không có gì đảm bảo rằng dự án được trình bày trong sách trắng không phải là một dự án ma.

Tiếp theo, A sẽ phải tạo ra hồ sơ cá nhân của những người lãnh đạo dự án. Rất nhiều dự án tiền ảo đang tồn tại trên thị trường đã làm điều này bằng cách đi thuê người đứng tên. Hồ sơ của người lãnh đạo dự án thường xuất hiện trên mạng xã hội việc làm LinkedIn với những chi tiết về bằng cấp, kinh nghiệm việc làm và uy tín rất ấn tượng. Nhưng khi dự án “sập” thì những hồ sơ này cũng biến mất ngay lập tức.

Và ban đầu công ty A đã tự tạo cho mình được một chút uy tín. Tiếp theo sẽ đến giai đoạn làm FOMO và niêm yết đồng token A lên các sàn tiền ảo và triển khai mô hình đa cấp tiền từ giai đoạn trước khi phát hành đồng tiền.

Đa cấp tiền ảo bằng tiền ảo hoạt động thế nào?

Giới đầu cơ, môi giới tiền ảo rất giỏi trong việc tạo hiệu ứng FOMO trên thị trường. FOMO (Sợ bị bỏ lỡ – Fear Of Missing Out) được nhà đầu tư mạo hiểm Patrick James McGinnis định nghĩa lần đầu tiên vào năm 2004. Nó là một chứng lo âu xã hội. Trong đó, một người tin rằng những người khác đang làm cho cuộc sống của họ trở nên tốt hơn, còn bản thân mình thì không, nên bị thôi thúc phải làm theo họ. Người môi giới tiền ảo sẽ truyền bá thông tin như token A có thể sẽ trở thành một hiện tượng như Bitcoin tiếp theo. Và xuất hiện một nỗi sợ bị bỏ lại. Nếu bạn không tham gia, tất cả sẽ trở thành triệu phú trừ bạn.

Ngoài ra, những người môi giới sẽ còn tổ chức các hội thảo, họ sẽ không nói về đồng tiền ảo này một cách trực tiếp mà đề cập đến tiềm năng của những dự án được đề cập trong sách trắng. Khi những nhà đầu tư thể hiện sự tin tưởng rõ ràng với dự án mà đồng tiền ảo này neo vào. Khi đó những nhà môi giới của A mới tung ra chiêu cuối cùng: Đa cấp tiền ảo bằng tiền ảo.

Tại Việt Nam đã có rất nhiều nạn nhân dính bẫy đa cấp tiền ảo.

Khác với những chiêu trò lừa đảo tiền ảo khác mà người dùng bỏ tiền thật vẫn được trả lãi cho đến ngày họ không vào được website của hệ thống để giao dịch nữa, chiêu đa cấp tiền ảo bằng tiền ảo tinh vi hơn và gây hại lớn hơn cho những nhà đầu tư. Đơn giản, bởi số tiền lãi mà nhà đầu tư được trả lại chính là số tiền ảo mà họ mua. Ví dụ: ông B mua 1.000 token của dự án A với giá 1.000 USD, mỗi ngày ông B sẽ được trả lãi bằng 10 token. Hình thức đa cấp tiền ảo bằng tiền ảo thường được áp dụng từ giai đoạn ICO (Intial Coin Offering – Đợt phát hành tiền ảo đầu tiên), giai đoạn nhằm gây quỹ cho dự án trước khi đồng tiền được niêm yết chính thức.

Ở giai đoạn ICO, nhà đầu tư sẽ được mua với giá ưu đãi hơn nhiều so với giá mà nhà phát hành cam kết khi niêm yết trên sàn. Vẫn với mô hình kim tự tháp, những người ở đỉnh kim tự tháp sẽ được lợi nhuận nhiều hơn những người ở tầng thứ phía dưới. Nhưng tất cả lợi nhuận này đều phải trông chờ cho đến khi đồng tiền ảo A được niêm. Để giữ cho đồng tiền ảo mới ra không bị bán tháo ngay khi niêm yết, những công ty phát hành tiền ảo thường yêu cầu khóa số tiền của người sử dụng trong khoảng thời gian nhất định khoảng từ 3-6 tháng kể từ khi họ mua đồng tiền này. Và câu chuyện tiếp theo hoàn toàn dựa trên sự “hên – xui”.

Như đã nói trên, một đồng tiền chỉ có giá trị khi nó có khả năng giao dịch và để đồng tiền giao dịch được thì các dự án mà nhà phát hành tiền đề cập trong sách trắng phải có khả năng thành công. Trong khoảng thời gian 3-6 tháng kể từ khi chính thức niêm yết đồng tiền trên một sàn giao dịch, nếu các dự án không thành công, nhà đầu tư không còn tin tưởng, hoặc thị trường không còn niềm tin với đồng A nó sẽ trở về giá trị 0. Và vì khoản tiền trong tài khoản vẫn bị khóa, nên nhà đầu tư vào nó không còn cách gì ngoài hy vọng. Rồi thường thì họ sẽ mất trắng khoản đầu tư của mình.

Rất nhiều người đã không nhận ra để rồi sa vào cái bẫy rất đơn giản nhưng tinh vi của tiền mã hóa. Mọi chi tiết trong một dự án tiền mã hóa đều có thể được tạo ra hoàn hảo một cách giả tạo. Cuối cùng thì cuộc chơi tiền ảo vẫn là cuộc chơi của những nhà môi giới. Những nhà đầu tư mới cần phải cảnh tỉnh và tìm hiểu nhiều hơn thị trường đầy rủi ro và mạo hiểm này.

Tiệp NguyễnBài đăng trên tạp chí giấy Nhà Đầu Tư tháng 5/2021.

Trong 4 tháng, kim ngạch hàng nhập khẩu từ Trung Quốc gần 34 tỷ USD, tăng đột biến 51,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Vậy con số này nói lên điều gì? Việt Nam có đang trở thành nơi “rửa” xuất xứ hàng Trung Quốc?

Theo Tổng cục Hải quan, trong 4 tháng đầu năm 2021, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước đạt 208,25 tỷ USD, tăng 30,7% với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, trị giá hàng hóa xuất khẩu đạt 104,94 tỷ USD, tăng 29,6%, tương ứng tăng 23,94 tỷ USD và nhập khẩu đạt 103,31 tỷ USD, tăng 31,8%, tương ứng tăng 24,92 tỷ USD.

Trong 4 tháng, Việt Nam đã nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc 34 tỷ USD hàng hóa, tăng ở mức đột biến so với cùng kỳ năm 2020.

Các chuyên gia kinh tế khẳng định nhập siêu từ thị trường Trung Quốc tăng mạnh chủ yếu do cùng kỳ năm 2020 thương mại Việt Nam – Trung Quốc đã bị gián đoạn bởi dịch COVID-19, còn năm nay thương mại hai bên đã dần trở lại trạng thái bình thường.

Ngày 3/4/2021, tờ Lao Động dẫn lời của Phó Viện trưởng Viện Kinh tế – Tài chính, TS Nguyễn Đức Độ, cho rằng: “Trong những tháng đầu năm 2021, nhập siêu từ Trung Quốc tăng nhưng chủ yếu là nguyên liệu sản xuất. Điều này cho thấy hoạt động kinh tế trong nước đang hồi phục”.

Bộ Công Thương cũng khẳng định, với đà tăng trưởng mạnh ngay cả trong bối cảnh đại dịch COVID-19, thương mại hai chiều giữa Việt Nam – Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng trưởng cao, đặc biệt khi kinh tế hai nước bước vào giai đoạn phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch COVID-19.

Trị giá xuất khẩu, nhập khẩu theo châu lục, khối nước và một số thị trường lớn trong 4 tháng năm 2021 và so với 4 tháng năm 2020. Nguồn: Tổng cục Hải quan.

Nhiều thông tin cho rằng với mức nhập khẩu tăng đột biến từ Trung Quốc, Việt Nam cần cẩn trọng vì có nguy cơ trở thành nơi rửa xuất xứ hàng hóa từ Trung Quốc.

Tuy nhiên, xét trên con số từ 4 mặt hàng xuất khẩu có giá trị trên 5 tỷ USD và mặt hàng nhập khẩu thiết yếu như sắt thép trong quý 1/2021 của Việt Nam, với giá trị nhập khẩu đối với các mặt hàng tương tự từ Trung Quốc, nguy cơ trên khó có thể xảy ra.

4 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD trong quý 1/2021 của Việt Nam là Điện thoại các loại và linh kiện: 18,19 tỷ USD (xuất khẩu sang Trung Quốc: 3,96 tỷ USD); Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: 15,85 tỷ USD (Trung Quốc: 3,28 tỷ USD) ; Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác: 12,17 tỷ USD (xuất khẩu chủ yếu sang Hoa Kỳ, EU); Hàng dệt may: 9,66 tỷ USD; Sắt thép: 2,79 tỷ USD.

Đối với mặt hàng điện thoại các loại, linh kiện, Trung Quốc và Hàn Quốc vẫn là 2 thị trường chính cung cấp cho Việt Nam, với tổng giá trị là 5,55 tỷ USD. Trong đó, từ Trung Quốc là 2,97 tỷ USD, tăng 49,7%, từ Hàn Quốc là 2,58 tỷ USD, tăng 36,4% so với cùng kỳ năm trước.

Ở mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, Trung Quốc đã vượt Hàn Quốc trở thành thị trường lớn nhất cung cấp nhóm hàng này. Trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong 4 tháng đầu năm từ Trung Quốc là 6,3 tỷ USD (tăng 61% so với cùng kỳ 2020), còn Hàn Quốc là 5,84% (tăng 6%).

Riêng mặt hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác, cần phải xét tới yếu tố những doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI). Tổng giá trị nhập khẩu nhóm hàng này là 14,75 tỷ USD (Trung Quốc chiếm 7,46 tỷ USD) tăng 2,95 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2020. Nhưng trong số 2,95 tỷ USD này, thì riêng khối doanh nghiệp FDI nhập khẩu từ Trung Quốc đã tăng 2,8 tỷ USD.

Trị giá nhập khẩu máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng của khối doanh nghiệp FDI và khối doanh nghiệp trong nước 4 tháng năm 2020 và 4 tháng năm 2021. Nguồn: Tổng cục Hải quan.

Với mặt hàng dệt may, trị giá tổng nhập khẩu đạt 8,39 USD. Trong đó, Trung Quốc là thị trường lớn nhất cung cấp nhóm hàng này, chiếm tỷ trọng 50%, với 4,19 tỷ USD, tăng 34% so với cùng kỳ năm trước.

Đối với sắt thép, lượng nhập khẩu trong 4 tháng đầu năm đạt hơn 5 triệu tấn, trị giá nhập khẩu là 3,73 tỷ USD, trong đó Trung Quốc chiếm 2,63 triệu tấn. Nhưng Trung Quốc cũng đang đẩy mạnh nhập khẩu thép từ Việt Nam. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan năm 2020 thì nhập khẩu thép từ Việt Nam vào Trung Quốc tăng gấp 19 lần so với cùng kỳ 2019.

Nhiều chuyên gia cho rằng, lượng sắt thép nhập khẩu tăng cao do Việt Nam kiểm soát rất tốt tình hình bùng phát của đại dịch COVID-19, nhu cầu xây dựng vẫn tăng cao dẫn đến nhu cầu nhập khẩu thép cũng tăng.

Như vậy, xét từ các chỉ số số xuất khẩu và nhập khẩu ở những nhóm hàng, khó có thể kết luận số 34 tỷ USD này biểu hiện của nguy cơ Việt Nam thành điểm để “rửa” xuất xứ hàng Trung Quốc.

Tuy nhiên, với  số tăng đột biến ấy, cũng cần phải quản lý chặt chẽ và cảnh giác với những trường hợp như sự kiện “Ấn Độ điều tra chống bán phá giá sản phẩm pin năng lượng mặt trời xuất xứ từ Việt Nam”.

Việc bán tháo cổ phiếu Tesla vào ngày 18.05 có thể là do dữ liệu lạm phát tại châu Âu. Giá tiêu dùng tại Anh quốc tăng 1,3%, giá cả trên toàn châu Âu cũng tăng 1,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Giá tiêu dùng tại châu Âu tăng 2,9% so với tháng 3.

Mức lạm phát tuyệt đối không đáng báo động. Nhưng các nhà kinh tế mong muốn sẽ có được mức thấp hơn. Tác động xấu của lạm phát không phải là điều mà những nhà đầu tư muốn chứng kiến.

Điều mà các nhà kinh tế và đầu tư thực sự muốn là một tỷ lệ lạm phát theo kiểu Goldilocks. Thuật ngữ này chỉ về một nền kinh tế không quá nóng nhưng cũng không quá lạnh. Tức là, lạm phát một chút là tốt nhưng quá nhiều là không tốt và lạm phát tăng nhanh hơn dự kiến cũng là xấu. Lạm phát cao có xu hướng ảnh hưởng tới việc định giá cổ phiếu dẫn tới lãi suất và lợi suất trái phiếu cao. Điều đó có nghĩa là các cổ phiếu có hệ số giá/thu nhập lớn cùng tỷ suất cổ tức nhỏ sẽ tương đối kém hấp dẫn hơn so với trái phiếu.

Giá cổ phiếu Tesla trong ngày 20/05. Ảnh: Google.

Các ngân hàng trung ương trên toàn thế giới đều muốn kìm hãm tỷ lệ lạm phát nhanh hơn dự kiến. Họ sẽ tăng lãi suất trong ngắn hạn để thực hiện điều đó. Lãi suất tăng khiến cho việc kinh doanh trở nên tốn kém hơn và có xu hướng hạ nhiệt nền kinh tế. Điều này có hại cho việc tăng trưởng thu nhập của doanh nghiệp. Giá cả tăng nhanh sẽ tác động tới tất cả mọi người. Những người tiết kiệm có ít của cải hơn bởi mọi thứ đắt đỏ hơn. Tỷ suất lợi nhuận và kế hoạch sử dụng vốn đều bị kiềm chế.

Giá cổ phiếu giảm hôm 18.05 không liên quan tới sự thâm nhập thị trường EV (xe điện) hay công nghệ pin. Cổ phiếu EV có xu hướng được định giá cao đơn giản chỉ bởi vì chúng đang tăng nhanh. Ngày 18.05 vừa rồi, cổ phiếu NIO của nhà sản xuất xe điện Trung Quốc cũng giảm khoảng 4%.

Vào ngày 17.05, các nhà đầu tư EV đã nhận được tin tốt về ngành công nghiệp này từ ông Joe Biden: “Bây giờ là thời điểm vàng cho các khoản đầu tư dài hạn, mang tính chuyển đổi”. Tổng thống Hoa Kỳ cũng chỉ ra rằng Trung Quốc có 800.000 trạm sạc xe điện so với con số 100.000 tại Hoa Kỳ. Ông Biden cũng nhắc lại kế hoạch đầu tư vào cơ sở hạ tầng xe điện như một phần trong Kế hoạch Việc làm cho người Mỹ của ông. Ngoài việc mở thêm nhiều trạm sạc, ông cũng vạch ra kế hoạch về các ưu đãi khi mua xe điện, tín dụng thuế để đầu tư vào sản xuất liên quan đến xe điện và thêm tài chính cho việc phát triển và nghiên cứu xe điện.

Một mẫu xe điện cao cấp của Tesla. Ảnh: Thelemonfirm.

Cổ phiếu Tesla tăng 0,2% sau tin tức đó. Tuy nhiên, đó là một mức tăng nhỏ khi đối mặt với sự sụt giảm gần đây. Cổ phiếu Tesla giảm khoảng 36% so với mức cao nhất trong 52 tuần kể từ tháng 1 là khoảng 900 USD/cổ phiếu. Kể từ đó, đã có một số điều cơ bản khiến các nhà đầu tư lo lắng, chẳng hạn như các nhà sản xuất xe truyền thống đang có kế hoạch cạnh tranh hơn với xe điện. Ở một mức độ nào đó, Giám đốc điều hành Tesla, Elon Musk cũng khiến các nhà đầu tư của mình phải kinh ngạc khi bước vào lĩnh vực tiền điện tử.

Tesla đã nắm giữ khoảng 2,5 tỷ USD Bitcoin vào cuối quý 1. Giá Bitcoin đã giảm gần 40% kể từ đó, làm giảm khoảng 1 tỷ USD giá trị số tiền mã hóa mà Tesla đang nắm giữ. Còn hôm nay, khoản lỗ của Tesla lên tới khoảng 300 triệu USD và giá trị vốn hóa thị trường của công ty này giảm khoảng 2 tỷ USD.

Hầu hết sự sụt giảm có thể bắt nguồn từ lạm phát và sự luân chuyển của các nhà đầu tư khỏi các cổ phiếu tăng trưởng cao. Nasdaq Composite, nơi có nhiều cổ phiếu tăng trưởng cao, giảm khoảng 2% kể từ khi Tesla đạt mức cao nhất trong 52 tuần. Chỉ số Dow Jones, nơi có nhiều công ty thuộc nền kinh tế cũ, tăng hơn 10% so với cùng kỳ.

Lo ngại lạm pháp cần lắng xuống vì đó là một điều kiện tiên quyết để lĩnh vực xe điện tiếp tục tăng trưởng. Và sau khi lo ngại lạm phát biến mất, các nhà đầu tư có thể quay trở lại đánh giá quỹ đạo dài hạn về lợi nhuận của công ty EV.